Hài hước, trào tiếu, sân khấu hoá – Một khuynh hướng tiểu thuyết gần đây
PARODY, SATIRE AND DRAMATIZATION – A TREND OF RECENT NOVELS
Tác giả bài viết: NGUYỄN VĂN TÙNG
(Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam)
TÓM TẮT
Thể loại tiểu thuyết Việt Nam trong những năm gần đây có khuynh hướng tìm tòi và đổi mới theo hướng hài hước, trào tiếu và sân khấu hóa. Hài hước, trào tiếu là những đặc điểm của tiểu thuyết, đã được các nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng đề cập đến, chẳng hạn như M. Bakhtin và M. Kundera. Sân khấu hoá tiểu thuyết là một cách thể hiện gây ấn tượng với người đọc về một thế giới vừa có thực vừa không có thực. Hài hước, trào tiếu trong “SBC là săn bắt chuột” được thể hiện thông qua một số yếu tố: tựa đề hư cấu, thế giới các nhân vật hư cấu hài hước, sự tương phản về nhân phẩm giữa con người và loài chuột… Hài hước, trào tiếu, sân khấu hóa trong “3.3.3.9 [những mảnh hồn trần]” được thể hiện bằng một cốt truyện nhiều tuyến, sự đạo diễn sắp đặt cho các nhân vật xuất hiện; ngôn ngữ xã hội, thị dân tràn vào tác phẩm…
Từ khoá: hài hước, trào tiếu, giễu nhại, sân khấu hoá, trò diễn, tiểu thuyết, hiện thực, phi thực, huyền ảo, đạo diễn, đa tuyến.
ABSTRACT
Vietnamese fiction in recent years has been approaching to the tendency of searching and innovating, which leads to parody, satire and dramatization. The parody and satire are characteristics of fiction which were mentioned by famous literary study scholars, such as M. Bakhtin and M. Kundera. Dramatization is a way of expressing in novel writing, which deeply characterizes the acts of play, making an impression to the reader of a world both real and unreal. The parody, satire, dramatization in “San Bat Chuot” (mice hunting) are expressed through a number of factors: the title of the fiction, the world of ridiculously cartoonish characters, the contrast in dignity between human and mouse, the way of narration deeply stamped with the visionary of language. The parody, satire, dramatization in “3.3.3.9 [The pieces of bare soul]” is shown by a multiline plot, the arrangement for the characters to appear; language and social reality are reflected…
Keywords: Parody, satire, ridicule, dramatization, Keywords perform, novel, real, unreal, fanciful, director, multi-linear.
x
x x
1. Mở đầu
Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay đã qua một số mùa vụ bội thu như cuối những năm 80 và đầu những năm 90. Bẵng đi một thời gian khá dài, vài năm gần đây, lại thấy lác đác xuất hiện một số cuốn đáng chú ý, thuộc nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau, có thể đi theo hướng tìm về lịch sử hoặc đời tư, thế sự; được thể hiện theo nhiều lối viết khác nhau… Tuy nhiên, ở bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những tiểu thuyết được viết theo lối hài hước, trào tiếu và bị sân khấu hoá. Điển hình cho phong cách này là hai cuốn “SBC là săn bắt chuột” của Hồ Anh Thái và “3.3.3.9 [những mảnh hồn trần]” của Đặng Thân.
2. Nội dung
Về cơ sở lý luận, vấn đề giễu nhại, trào tiếu đã được các nhà nghiên cứu nổi tiếng về thể loại tiểu thuyết đề cập. Hài hước, trào tiếu, giễu nhại được xem là một đặc trưng nổi bật của tiểu thuyết. Một cuốn tiểu thuyết được viết bằng giọng văn đó bao giờ cũng khiến người đọc cảm thấy vui vẻ, nhẹ nhàng khi tiếp nhận những vấn đề nghiêm trọng của thời đại. Nhà tiểu thuyết đã khéo léo phản ánh hiện thực xã hội với sự lấp lửng: vừa giống vừa không giống thật, vừa nghiêm túc vừa không nghiêm túc. Tiểu thuyết theo cách này không mô tả cuộc sống đúng như thật. Chuyện đùa như thật, chuyện thật như đùa có lẽ là một cách nói khái quát về điều đó.
Tuy nhiên, cách viết ấy từ lâu rồi đã bị bỏ quên, mãi đến gần đây nó mới lại được phục sinh trong đời sống văn học. Milan Kundera cho rằng: “Nhà tiểu thuyết ngày nay là kẻ thừa kế của thế kỉ XIX, thèm muốn nuối tiếc cái thế giới hỗn tạp của các nhà tiểu thuyết đầu tiên và niềm tự do vui vẻ mà họ chất đầy trong thế giới ấy”. Kundera khẳng định về vai trò của cái hài hước trong tiểu thuyết, ông cho rằng hài hước gắn liền với sự ra đời của tiểu thuyết: “hài hước không phải là một thói quen từ thượng cổ của con người; đó là một phát minh gắn liền với sự ra đời của tiểu thuyết (…) nó khiến bất cứ cái gì nó chạm đến đều trở thành nhập nhằng nước đôi” [1, tr.178].
Nếu như Kundera quan tâm nhiều đến tính hài hước thì Bakhtin trong cuốn Lý luận và thi pháp tiểu thuyết [2], lại rất nhấn mạnh đến tính giễu nhại, trào tiếu. Trong khi giải quyết mối quan hệ giữa nhà tiểu thuyết với hiện thực được miêu tả, Bakhtin cho rằng, nhà tiểu thuyết không lấy quá khứ tuyệt đối làm đối tượng miêu tả, bởi điều đó sẽ tạo nên giọng điệu ngưỡng vọng, thành kính. Anh ta sẽ chọn đối tượng miêu tả là hiện thực đang tiếp diễn với những người cùng thời. Điều đó sẽ là yếu tố quyết định thái độ trào tiếu của tiểu thuyết. Với vị trí của những người cùng thời, với giọng điệu trào tiếu, nhà tiểu thuyết có thể tiếp cận đối tượng miêu tả ở cự li gần, có thể vỗ vai, bóc mẽ… nhân vật.
Còn lối viết sân khấu hoá tiểu thuyết là gì? Đó là một lối viết vừa hiện thực vừa phi thực, vừa như đùa vừa như thật. Viết về hiện thực nhưng lại có vẻ không thực và như một kiểu trò diễn sân khấu. Cũng có thể gọi đó là một kiểu sân khấu hoá tiểu thuyết.
Đây là một cách diễn đạt của chúng tôi về cách thức miêu tả của nhà tiểu thuyết. Đó là một sự miêu tả mang nhiều tính trò diễn, nghĩa là những sự vật, con người được miêu tả trong tác phẩm giống như diễn viên diễn trò trên sân khấu. Cách thể hiện của người diễn viên luôn luôn nhắc nhở người xem rằng họ đang diễn trò chứ không phải sự thực ngoài đời, khác hẳn cách thể hiện của diễn viên điện ảnh. Người diễn viên sân khấu phải luôn có ý thức nhắc nhở khán giả của mình hiểu rằng họ đang xem diễn trò trên sân khấu. Vậy nên, hành động kịch, đối thoại của người diễn viên thường mang tính chất tượng trưng ước lệ. Chẳng hạn, người diễn viên cầm một mái chèo, làm vài động tác chèo đò, có nghĩa là biểu thị hành động vừa đi qua một con sông. Hoặc hai người nam nữ muốn trao nhau một nụ hôn, nụ hôn ấy cũng chỉ thực hiện giả vờ, mang tính kĩ xảo…
Tiểu thuyết đầu tiên chúng tôi muốn nói đến là cuốn SBC là săn bắt chuột (2011) của nhà văn Hồ Anh Thái. Quan sát tác phẩm của Hồ Anh Thái theo dòng thời gian, như Chàng trai ở bến đợi xe (1985), Người và xe chạy dưới ánh trăng (1987), Mảnh vỡ của đàn ông (1990), Cõi người rung chuông tận thế (2002), Bốn lối vào nhà cười (2005)… có thể đi đến một cảm nhận chung: dường như càng về sau này, Hồ Anh Thái càng xa dần với lối văn nghiêm ngắn, đạo mạo để tiến đến gần hơn với lối văn hài hước, trào tiếu, giễu nhại. Tính chất hài hước, giễu nhại được thể hiện ngay từ đầu đề của tác phẩm. SBC thông thường người ta sẽ nghĩ đến chuyện “săn bắt cướp”, nhưng không, tác giả lật tẩy vấn đề, đó là “săn bắt chuột”. Nhan đề cuốn tiểu thuyết vừa có vẻ hài hước vừa có hàm ý nói về một cuộc chiến được bài binh bố trận đối với loài chuột.
Tưởng như đối tượng giễu nhại của cuốn tiểu thuyết là loài chuột vốn đã mang tiếng bẩn thỉu, xấu xa, nhưng càng đọc càng thấy không phải thế. Đối tượng trào tiếu, giễu nhại của Hồ Anh Thái lại là rất nhiều loại người trong xã hội: từ nhà thơ, nhà báo đến đại gia, chân dài, cốp, luật sư, giáo sư… Cả một thế giới nhân vật hiện lên với sự lố lăng kệch cỡm. Nhiều nhà nghiên cứu từng nói, sau Vũ Trọng Phụng, chưa có nhà văn nào kế tục được kiểu tiểu thuyết hoạt kê như Số đỏ. Với SBC là săn bắt chuột, chúng tôi cho rằng Hồ Anh Thái xứng đáng được xếp vào vị trí ấy.
Không chỉ đặc biệt ở tên tác phẩm, mà tên các nhân vật cũng rất độc đáo. Hồ Anh Thái không đặt tên nhân vật là Hạ, là Đông… mà đặt tên theo giai tầng xã hội của nhân vật. Hầu như tên các nhân vật của cuốn tiểu thuyết vừa mang tính chất cụ thể, vừa mang tính chất phiếm chỉ: Chàng, Nàng, cô Báo (nhà báo), chú Thơ (nhà thơ), Đại Gia, ông Cốp, Luật Sư, Thư kí, Giáo sư… Hầu như mỗi giới, mỗi tầng lớp trong xã hội đều có một nhân vật đại diện. Cách đặt tên, sắp đặt các nhân vật như thế là một dụng ý của tác giả nhằm tăng cường tính chất khái quát, điển hình của gương mặt hiện thực xã hội.
Điều đáng chú ý, hầu như các nhân vật của cuốn tiểu thuyết này đều được hiện lên với những nét biếm hoạ: Đại Gia thì trở nên giàu có từ buôn lậu, đầu cơ đất đai bất động sản; Ông Cốp thì tiến thân từ một kiểm lâm lợi dụng vị trí phá rừng lấy tiền làm giàu và chạy chọt; cô Báo thì từ thời sinh viên đã biết chạy mánh, đến khi đi làm thì không lo làm báo mà chỉ chăm chú kinh doanh những hàng hoá phục vụ vệ sinh cho đồng nghiệp; chú Thơ thì làm thơ lăng nhăng lãng xẹt nhưng quảng cáo là thơ bất hủ với thời gian; Giáo sư thì lạm dụng học trò cả tình lẫn tiền… Hầu như chẳng mấy người tử tế. Xem ra sống cho thật tử tế và tình nghĩa với nhau, lại chỉ có loài chuột. Loài chuột có nhược điểm là ăn bẩn, chui rúc… nhưng ở đây lại thể hiện văn hoá cộng đồng còn hơn cả thế giới con người. Loài chuột sống đoàn kết, gắn bó. Thủ lĩnh sẵn sàng xả thân vì các thần dân trong vương quốc của mình. Các thần dân cũng một lòng một dạ đi theo thủ lĩnh. Chuột Trùm trong lúc nguy khốn bị truy đuổi đã lấy thân mình bảo vệ cho đồng loại. Khi Chuột Trùm bị chết, cả đàn chuột hàng vạn hàng triệu con nhảy xuống sông Hồng chết theo… Riêng Chuột Trùm lại có công năng kì lạ khi chiến đấu với con người, nhất là người xấu, đó là khả năng làm mất trọng lượng của những ai dám nhìn vào mắt nó. Chuột Trùm xem ra không phải đại diện cho thế lực xấu, mà có người cho rằng, đó là đại diện của Sự Thật. Sự thật mất lòng, sự thật từng được ví với thuốc đắng – dã tật. Vì thế, những ai nhìn thẳng sự thật có thể sẽ mất trọng lượng, những kẻ xấu có thể sẽ phải bỏ mạng như Đại Gia.
Đặc sắc của SBC là săn bắt chuột còn được thể hiện qua cách kể chuyện đậm chất huyền ảo. Những câu chuyện của cuốn tiểu thuyết này được lắp ghép với nhau bằng những phép màu của sự tưởng tượng kì ảo. Mở đầu bằng một trận lụt, kết thúc bằng một trận hạn hán…, cuốn tiểu thuyết như có vẻ nhắc người đọc nhớ về cuốn tiểu thuyết hiện thực huyền ảo kinh điển Trăm năm cô đơn của G. Macket. Tuy nhiên, kiểu hư cấu tưởng tượng của Hồ Anh Thái tỏ ra thoải mái, phóng khoáng hơn, bởi hai cuốn tiểu thuyết này khác nhau về giọng điệu, tình thái. Cuốn Trăm năm cô đơn bị nỗi buồn ngự trị, còn cuốn của Hồ Anh Thái bao trùm bởi một không khí vui vẻ, hài hước.
Những chi tiết tưởng tượng kì ảo của SBC là săn bắt chuột có vai trò quan trọng trong việc tạo nên thế giới nghệ thuật độc đáo của cuốn tiểu thuyết. Nếu như không có yếu tố tưởng tượng kì ảo, chắc chắn Hồ Anh Thái sẽ không thực hiện được các ý đồ nghệ thuật của mình. Những chi tiết tưởng tượng kì ảo của Hồ Anh Thái trong cuốn tiểu thuyết này biến ảo khôn lường. Con chuột máy tính không ngờ lại chính là bè đảng của họ hàng nhà chuột, rồi trở thành gián điệp cho con người. Chi tiết Nàng – một doanh nhân lỡ thì – trong lúc bị choáng, cơ thể rã rời, mất khả năng điều hành, bỗng trở lại trạng thái vô cùng nhanh nhẹn, khoẻ mạnh chỉ với những viên “thuốc” ăn ngon như đồ nhậu. Về sau hoá ra đó là bài thuốc bí truyền chế từ thịt chuột của quê hương Nàng – một vùng quê ven đô có truyền thống bắt và ăn thịt chuột! Và vì thế, sau này “lịch sử” đã trao cho Nàng sứ mệnh tổng chỉ huy chiến dịch “săn bắt chuột” để cứu Chàng và những người bị Chuột Trùm làm mất trọng lượng!
Về phương diện ngôn ngữ, SBC là săn bắt chuột có nhiều điểm đáng chú ý. Ngôn ngữ của người kể chuyện và ngôn ngữ của nhân vật đều sử dụng kiểu ngôn ngữ giao tiếp kiểu “thị dân”. Có thể thấy rất rõ màu sắc giễu nhại ngôn ngữ thị dân được thể hiện đậm nét ở đây. Có người cho rằng, Hồ Anh Thái trong cuốn tiểu thuyết này đã hơi lạm dụng kiểu ngôn ngữ thị dân đó. Nhưng theo chúng tôi, điều đó thể hiện chủ ý của nhà văn. Dùng ngôn ngữ đó để kể chuyện cũng như để miêu tả lời thoại nhân vật hoàn toàn không phải là anh ta bị nó mê hoặc, mà thực ra là anh ta muốn thể hiện thái độ giễu nhại. Mặt khác, điều đó nó cũng phần nào phản ánh gương mặt sinh động của ngôn ngữ bình dân đương đại…
Nhìn chung, SBC là săn bắt chuột là cuốn tiểu thuyết dễ đọc, hấp dẫn, nhà văn đã khá thành công khi đi theo hướng tìm tòi thể nghiệm này. Tuy nhiên, cũng dễ nhận ra, càng về cuối, mức độ hấp dẫn càng giảm, nhà văn có vẻ như không giữ được phong độ như ở đoạn đầu.
Cuốn thứ hai đáng chú ý, đó là cuốn 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần] của Đặng Thân. Một cuốn sách lạ ngay từ nhan đề. Cuốn tiểu thuyết này sau khi ra mắt bạn đọc đã tạo nên hai luồng ý kiến trái ngược. Một phía cho rằng, cuốn tiểu thuyết này xứng đáng được coi là tác phẩm viết theo lối hậu hiện đại. Có thể coi Đặng Thân là người mở ra một chặng mới cho văn học, giống như Nguyễn Huy Thiệp trước kia đã từng làm. Có tờ báo cho rằng Đặng Thân nổi bật với phong cách nổi loạn trong văn chương… Một phía khác lại cho rằng, những cái mới trong cuốn tiểu thuyết này cũng chỉ là sự thay đổi theo kiểu làm lạ mắt, lạ tai, thực chất cũng vẫn chưa thoát khỏi hệ hình văn học đương đại. Lại có ý kiến cho rằng, cuốn tiểu thuyết này cũng giống như kiểu tiểu thuyết tư liệu trước đây…
Theo chúng tôi, 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần] là một tác phẩm khá thành công của Đặng Thân. Trước hết, lối thể hiện của Đặng Thân trong cuốn tiểu thuyết này chưa có ai làm. Một cuốn tiểu thuyết được kể bằng giọng điệu của tất cả các nhân vật chính. Tác giả – người kể chuyện là một ngôi kể bình đẳng với những ngôi kể khác. Sau mỗi chương tiểu thuyết, lại là phần lời bàn, nhận xét của độc giả…
Cốt truyện của cuốn tiểu thuyết này thuộc kiểu cốt truyện đa tuyến, truyện trong truyện. Có chuyện đời của các nhân vật chính, lại có chuyện của những nhà văn, nhạc sĩ, hoạ sĩ, chính trị gia… Nội dung cuốn tiểu thuyết đề cập đến mọi lĩnh vực trong đời sống, từ chuyện tôn giáo đến chuyện chính trị, từ chuyện văn học đến chuyện nghệ thuật nói chung, từ chuyện yêu đương đến chuyện đa thê, từ chuyện kinh doanh đến chuyện phong tục, từ chuyện du lịch đến chuyện thời sự trong nước và thế giới, từ chuyện những nhân vật trong lịch sử Việt Nam đến những nhân vật trong lịch sử thế giới… Nhìn chung, có rất nhiều yếu tố lạ trong cuốn tiểu thuyết này, tuy nhiên, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh đó là tính giễu nhại, trào tiếu và sân khấu khoá.
Tính chất sân khấu hoá được thể hiện rất rõ trong việc tác giả đạo diễn, sắp đặt cho các nhân vật xuất hiện. Cuốn tiểu thuyết như một sân khấu lớn cho năm nhân vật chính thay nhau xuất hiện: Ông Bà/A Bồng – một nhân vật mang tính siêu nhiên thần bí; Schditt von deBalle-Kant – chàng doanh nhân người Đức làm việc tại Việt Nam, xuất thân trong một gia đình mà ông nội là một lính phát xít và bà nội là một người Do thái, tác giả Đặng Thân – người trực tiếp xưng danh trong tác phẩm, đảm nhiệm vai trò kết nối các nhân vật của tác phẩm; Mộng Hường – cô gái quê có nét hấp dẫn trời cho, bản tính hơi thiên nhiên, cuộc sống thăng trầm chìm nổi; Lời bàn [phím…] của các Netizen – phần bàn luận của các độc giả về từng chương của tiểu thuyết khi được tác giả giới thiệu dần trên mạng.
Nếu như tiểu thuyết truyền thống thường có cách tổ chức các nhân vật gặp gỡ, trò chuyện, hành động… làm sao tạo ra cảm giác giống như cuộc sống thật đang diễn ra như ta đang xem một tác phẩm điện ảnh thì trong cuốn tiểu thuyết này, dường như tác giả chủ động, không hề giấu giếm ý đồ tạo một chiếu chèo cho các nhân vật xuất hiện. Nhân vật xuất hiện cũng tự giới thiệu về mình, chẳng khác gì nhân vật chiếu chèo hát “tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ?”…
Trước hết là tính giễu nhại, trào tiếu về phương diện ngôn ngữ. Dường như Đặng Thân có chủ trương đưa cái ngôn ngữ tươi rói của đời sống vào tác phẩm. Đó là thứ ngôn ngữ tuổi teen, ngôn ngữ chát chít của nhân vật Mộng Hường, ngôn ngữ phóng khoáng, thoải mái của các nhân vật khác. Nhìn chung, kiểu ngôn ngữ của Đặng Thân là một kiểu ngôn ngữ vô cùng sống động của đời sống thường nhật. Tuy nhiên, điều chúng tôi băn khoăn, giả định tác phẩm này được dịch ra tiếng nước ngoài, thì dịch giả sẽ chuyển tải những ngôn ngữ teen, ngôn ngữ chát trong tác phẩm này như thế nào? Cuốn tiểu thuyết cũng dàn cảnh để cho những kiểu ngôn ngữ khác nhau xuất hiện, mỗi nhân vật đại diện cho một kiểu. Ngôn ngữ của A Bồng / Ông Bà đại diện cho kiểu ngôn ngữ truyền thống; của Đặng Thân (nhân vật) đại diện cho kiểu ngôn ngữ đa thanh, hấp thu giọng điệu của ngôn ngữ đương đại, thị thành; của Mộng Hường đại diện cho kiểu ngôn ngữ chát của giới trẻ 8x, 9x; của Schditt von deBalle-Kant đại diện cho kiểu ngôn ngữ Việt trong con mắt người nước ngoài…
Tính giễu nhại, trào tiếu còn thể hiện đậm nét trong việc tái hiện hiện thực cuộc sống. Những kiểu người trong xã hội đại gia, chân dài, lưu manh…, những vấn đề nóng của đời sống, sex, tiền, đạo lí, nhân cách…, đều được nhà văn khai thác ở nhiều khía cạnh, góc độ. Nhà văn thể hiện một vốn sống rất phong phú, sâu rộng. Cái nhìn nhiều chiều với tính giễu nhại, trào tiếu khiến cho hiện thực được phản ánh trong cuốn tiểu thuyết trở nên vô cùng hấp dẫn, lấp lánh.
3. Kết luận
Có thể nói, hài hước, trào tiếu, sân khấu hoá không chỉ thể hiện quá trình tìm kiếm đổi mới của các nhà văn mà còn phản ánh hơi thở của cuộc sống đương đại. Có lẽ chính cuộc sống hiện tại bề bộn, ngổn ngang và có nhiều khía cạnh hài hước, trào tiếu, giả dối, trò diễn… đã dẫn các nhà tiểu thuyết đến với những cách tân đó. Theo chúng tôi, cách viết này đang trở thành một hướng thể nghiệm của một số cây bút và trở thành một dòng sáng tác trong đời sống tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. Kundera (2001), Tiểu luận, – Nxb Văn hoá Thông tin.
2. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao – Trường viết văn Nguyễn Du.
Nguồn: Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội, Số 17/2017
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Hài hước, trào tiếu, sân khấu hoá – Một khuynh hướng tiểu thuyết gần đây (Tác giả: Nguyễn Văn Tùng) |