Hệ giá trị đạo đức phật giáo trong văn hóa Việt Nam (qua ca dao, tục ngữ) – Phần 2
Tác giả bài viết: Phó Giáo sư, Tiến sĩ PHAN THU HIỀN
[Báo cáo đã trình bày và đăng kỷ yếu Hội thảo khoa học Hệ giá trị văn hóa truyền thống và sự chuyển đổi hệ giá trị trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa, Biên Hòa, Đồng Nai, 9 – 2009].
2. Những quan niệm đạo đức gắn với nền tảng triết lý Tứ diệu đế
Ảnh hưởng Phật giáo cũng sâu đậm trong những câu ca dao, tục ngữ chuyên chở quan niệm đạo đức gắn với nền tảng triết lý Tứ diệu đế. Tuy nhiên, những trường hợp này thường không có cấu trúc hình thức dễ nhận diện như đối với cặp phạm trù Nghiệp báo – Luân hồi.
Theo lời Đức Phật, cũng như nước của bốn đại dương hùng vĩ chỉ có một vị mặn, tất cả những thuyết pháp của Người chỉ có một vị duy nhất là giải thoát, giải thoát con người khỏi đau khổ.
Tứ diệu đế đã khởi đầu từ Khổ đế, nhận diện bản chất cuộc đời con người là khổ. Thuật ngữ Khổ (Dukkha) trong cách dùng của Đức Phật thường được diễn đạt qua 3 tầng nghĩa. Thứ nhất, Khổ khổ (Dukkha – dukkha) tương đương với nghĩa thông thường khi ta nói về khổ, khổ đau. Thứ hai, Hoại khổ (Viparinàma – dukkha) nghĩa là nỗi khổ, là tình trạng bị thời gian biến đổi và hủy hoại. Thứ ba, Hành khổ (Samkhàra – dukkha) là nỗi khổ, là tình trạng bị quy định và bị phụ thuộc. Do đó, khi Đức Phật khái quát “đời là bể khổ” thì không có nghĩa đơn giản rằng đời chỉ là khổ khổ (chỉ toàn đau khổ không có niềm vui) mà còn rằng đời có bản chất hoại khổ (vạn sự đều vô thường) và hành khổ (vạn pháp đều vô ngã). Thế giới quan Phật giáo không bi quan cũng chẳng lạc quan. Khổ đế soi sáng một thực tế rằng chúng ta cũng như mọi thứ trong đời này đều bị thời gian biến đổi và làm hủy hoại; rằng cái tôi của mỗi chúng ta không có tự tính, không độc lập, mà bị phụ thuộc, bị quy định bởi những cái không phải là nó.
Trên cơ sở đó, Đức Phật tiếp tục phân tích Tập đế (Nguyên nhân đau khổ), Diệt đế (Đau khổ có thể trừ diệt) và Đạo đế (Con đường để thoát khổ). Nói vắn tắt thì do không hiểu bản chất vô thường, vô ngã của đời sống, người ta tham dục vô minh, và vì vậy mà đau khổ. Muốn giải thoát đau khổ, đạt được Niết Bàn, phải tu dưỡng theo Bát Chính Đạo (tám con đường chân chính).
2.1. Trong ca dao tục ngữ Việt Nam, nhiều không kể xiết những câu về “khổ”, phần lớn là khổ theo nghĩa dùng thông thường (khổ khổ). Ảnh hưởng Phật giáo có thể cảm nhận rõ nét trong những trường hợp
– kết nối “khổ” với “thân” [Có thân có khổ / Hữu thân hữu khổ – Có thân phải khổ…],
– kết nối “khổ” với “nhân duyên” [Đa nhân duyên nhiều đường phiền não…].
Ở đây thường thấy thể hiện thái độ chấp nhận đau khổ, có khi mang giọng ngậm ngùi:
– Có thân phải khổ vì thân
Than ôi! Thân biết mấy lần gian nan!
– Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
nhưng cũng không thiếu khi vượt lên cứng cỏi, xem khổ đau, gian khó ở đời như thử thách rèn giũa con người trưởng thành:
– Có thân phải khổ, có khổ mới nên thân
Trong câu tục ngữ này, vế trước “có thân có khổ” thuộc “chính thể”, nhưng vế sau “có khổ mới nên thân” đã bước sang “biến thể”, cho thấy quan niệm sống nhập thế, khỏe khoắn của người lao động.
2.2. Bản chất hoại khổ, bản chất vô thường của đời sống được ca dao, tục ngữ diễn đạt qua so sánh cuộc đời với những hình tượng mong manh, giòn yểu:
– Đời người khác nữa là hoa
Sớm còn tối mất, nở ra lại tàn
– Đời người khác thể phù du
Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng
qua những cấu trúc thể hiện quan hệ quy luật giữa sinh – tử, tụ – tán, sắc – không…:
– có A (thì) có – A / hữu A hữu – A [Hữu tử hữu sinh – Hữu hình hữu hoại…]
– A như – A [Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn…]
– Sống gửi thác về / Sinh ký tử quy …
– Sắc sắc không không
Ở đây cũng vậy, có giọng chán nản thở than cuộc đời ngắn ngủi, nhưng nhiều hơn vẫn là thái độ an nhiên xem sinh – tử, tụ – tán, sắc – không… như quy luật, thái độ tích cực phấn đấu sống cuộc đời đầy ý nghĩa để khi ra đi không phải tiếc nuối:
– Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm
Câu ca dao bộc lộ nét “biến thể” qua mối quan tâm “nhập thế” trong thái độ ứng xử với vô thường (sống cho tròn bổn phận cũng như để lại danh thơm được xã hội thừa nhận).
Nhìn ra quan hệ nhân sinh, nếu đời sống vô thường, không ai biết được số kiếp vắn dài, người ta nay còn mai mất, thì cái còn lại là ăn ở nghĩa tình đầy đặn với nhau:
– Ăn đời ở kiếp chi đây
Coi nhau như bát nước đầy thì hơn
Tư tưởng vạn sự vô thường, của cải, danh vọng uy quyền đều hư huyễn được dân gian diễn đạt giản dị song rất thuyết phục:
– Của phù vân không chân hay chạy
– Vua Ngô băm sáu tàn vàng
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa chổm uống rượu tì tì
Chết xuống âm phủ khác gì vua Ngô
Từ đó mà thấy tham lam chỉ dẫn đến tàn mạt:
– Tham thì thâm
Phật đã bảo thầm rằng chớ có tham
– Tham lầm, thâm mạt
– Tham thì thâm, giàu đâm đầu vào lửa
– Sinh không, tử lại hoàn không
Khó ta ta chịu, đừng mong giàu người
– Vô tham, họa bất xâm
Trong CDTNPGVN cũng có những câu đề cập ái dục như nguyên nhân đau khổ. Nhưng chúng tôi cho rằng những câu đó không phải ca dao vì dễ dàng nhận thấy chúng, nhìn chung, không quen thuộc và nghe rất ít chất dân gian: không phải thể lục bát, dùng nhiều từ Hán Việt, nhiều thuật ngữ tôn giáo quá chuyên biệt, khó hiểu, nhất là thường xuất hiện hô ngữ “Chúng sinh ơi!” cho thấy chủ thể phát ngôn thuộc giới tu hành:
– Bội giá hiệp trần là nguyên nhân đau khổ
Quay đầu giác ngộ là Mục đế Như Lai
Vì yêu thương nên chi nghiệp báo dài dài
Chi bằng gắng công tu niệm để được hoa khai kiến phù
– Cảnh Tây thiên là miền cực lạc
Cõi Ta bà ngũ trọc đau khổ trần ai
Chúng sanh ơi! Mau mau theo gót Phật Như Lai
Lánh nơi dục giới qua đài Tây phương
– Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Chúng sinh ơi! Mau mau ly chốn Ta bà
Về nơi Tịnh độ có đức Di đà chờ trông
– Hữu ái tất sinh
Ái tần tất diệt
Vậy cho nên biết yêu thương là oan nghiệt chừng nào
Phen này gắng công tu luyện để khỏi sa vào trầm luân
Có thể nói, tư tưởng bể ái là bể khổ, “tu là cõi phúc, tình là dây oan”, về cơ bản, xa lạ với quan niệm của quần chúng nhân dân.
Tương tự, những câu diễn đạt tư tưởng về lòng trần, mùi trần, bụi trần ô trọc, rời bỏ trần gian tìm kiếm sạch trong, nếu có:
– Ai mô mộ cảnh ưa Thiền
Lòng trần rũ sạch nhơn nhơn ra về
– Sông Lô một dải trong ngần
Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên cũng ít và không tiêu biểu cho quan niệm giá trị của quần chúng nhân dân.
2.3. Tư tưởng về hành khổ, tư tưởng vạn pháp vô ngã ít được quan tâm luận bàn ở cấp độ triết lý trong ca dao, tục ngữ. Đây đó chỉ có một đôi câu cho thấy sự hàm hồ, giả ngụy trong phân biệt “ta” và “tha nhân”, “của ta” và “của người”:
– Đến ta mới biết của ta
Nghìn trăm năm trước biết là của ai
Tuy nhiên lại có khá nhiều ca dao tục ngữ đề cập sự thể hiện cụ thể tư tưởng vô ngã ở cấp độ đạo đức qua thái độ không sân hận, ganh ghét, tranh giành:
– Ở đây có cảnh có chùa
Sớm hôm nghe Pháp, hơn thua làm gì
– Đấng trượng phu đừng thù mới đúng
Đấng anh hùng đừng oán mới hay
– Lấy hận thù đáp hận thù
Hận thù không mất, nghìn thu vẫn còn đề cao sự nhịn nhường, hạnh nhẫn nhục:
– Một câu nhịn, chín câu lành
– Tới đây lạ xứ, lạ người
Trăm bề nhẫn nhịn đừng cười chê tôi
– Chữ nhẫn là chữ tượng vàng
Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu
hơn nữa, lấy tình yêu thương, đức từ bi mà báo trả oán thù:
– Dĩ đức báo oán
– Lấy oán thù đáp oán thù
Oán thù không dứt, niềm từ lại tiêu
Lấy tình thương gọi tình thương
Sóng lên một dợn, thủy triều liền dâng
và cao nhất, là lẽ sống quên mình vì người:
– Xả kỷ vị tha
– Xả thân cứu thế / Xả thân độ thế
2.4. Liên quan đến Tập đế, trong tam độc là nguyên nhân của Khổ, bao gồm Tham (tham lam) – Sân (thù hận) – Si (lầm lạc), ca dao tục ngữ Việt Nam có nhiều câu phê phán Tham và Sân hơn là Si. Có lẽ vì tham lam, thù hận là những thói xấu đạo đức phổ biến với biểu hiện phơi bày cụ thể hơn, tác hại xã hội rõ ràng hơn trong khi si mê, u tối, lầm lạc như một hạn chế về năng lực hiểu biết chân lý thì tương đối trừu tượng hơn.
Những thành ngữ liên quan đến khái niệm Si khá hiếm và cũng ít quen thuộc [U đồ, U mê ám chướng…]. Có 1 câu tục ngữ có thể xem là liên quan rõ nét nhất đến Si đã ngầm đặt đối sánh giá trị khôn – dại thế gian thường tình với giá trị hiền minh – vô minh thực sự. Những kẻ mưu cao, kế sâu tranh quyền đoạt vị, cướp bóc của cải… tưởng “khôn thế gian” nhưng chính là những kẻ si mê, u tối đang xây địa ngục cho mình:
– Khôn thế gian làm quan địa ngục,
Dại thế gian làm quan thiên đường.
2.5. Đạo đế – con đường đưa đến đạo quả, con đường giải thoát khỏi đau khổ, chính là theo Bát Chánh đạo (tám con đường chân chính), tu dưỡng cả về Giới (Sila – kỷ luật đạo đức), Định (Samadhi – kỷ luật tinh thần), Tuệ (Panna – trí tuệ). Ngũ giới (Giới) gồm không giết hại, không trộm cắp, không gian dâm, không nói dối, không uống rượu. Trong ngũ giới, ba tội đầu tiên có thể bị xem là rất nặng, nên cũng khá hãn hữu trong xã hội Việt Nam truyền thống; còn lỗi cuối cùng, đối với phần đông quần chúng thế tục có thể chỉ thuộc vấn đề sinh hoạt. Ca dao tục ngữ Việt Nam đề cập nhiều hơn đến tội lỗi nói dối (mở rộng ra là dối trá, lọc lừa), ngược lại với đạo đức thật thà, lương thiện:
– Một điều nói dối, sám hối bảy ngày
– Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối
– Ai ơi, chớ có ăn lời
Bụt kia có mắt, ông Trời có tai
– Thật thà, ma vật không chết
– Một câu nói ngay bằng làm chay cả tháng
2.6. Cũng có thể xếp về những quan niệm đạo đức trên nền tảng triết lý Tứ diệu đế là Tứ vô lượng tâm cần được vun bồi, gồm Từ [Metta: làm cho chúng sinh vui sướng, an lạc (ban vui)] – Bi [Karuna: giúp cho chúng sinh thoát khổ (cứu khổ)] – Hỉ [Mudita: vui vẻ, hân hoan với thành công, may mắn của người] – Xả [Upekkha: bình thản, tự tại, thư thái, trầm tĩnh, vô tư]. Trong Tứ vô lượng tâm, một cách tương đối, Hỉ và Xả chủ yếu liên quan những khía cạnh tu dưỡng trạng thái tinh thần của bản thân, trong khi Từ và Bi hướng quan tâm tới tha nhân. Trong ca dao tục ngữ Việt Nam, Từ Bi (không tách rời Từ – Bi mà gắn kết thành một) được xưng tụng nhiều hơn Hỉ, Xả.
Phẩm chất Đại từ đại bi gắn với hình tượng Đức Phật, Bồ Tát đã là mẫu mực cao đẹp cho lẽ sống tăng chúng, tín đồ Ăn chay niệm Phật, nói lời từ bi và khiến chùa chiền thành thế giới của niềm nhân ái Sen hồng nở cửa Từ bi, tỏa rạng tới thế gian:
– Đến với ma phải quỷ quyệt, đến với Phật phải từ bi
GS Vũ Khiêu từng nhận xét rất xác đáng: “Hệ thống giá trị ở Phật giáo bắt đầu là đức Từ bi” [Vũ Khiêu 1996: 86].
Ca dao tục ngữ Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh tình yêu thương, niềm trắc ẩn trong những hành động làm phúc thiết thực, cụ thể cứu giúp con người đau khổ, hoạn nạn:
– Dù xây chín bậc thù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người
– Cứu một người phúc đẳng hà sa
– Làm phúc nơi nao cầu ao chẳng bắc
– Anh tu cho bạc tóc mai
Sao bằng em lượm cành gai giữa đường
Và hạnh bố thí, sẵn sàng sẻ chia, tương trợ, đùm bọc lẫn nhau:
– Thí một chén nước, phước chất đầy non
– Có thóc cúng thóc, có tiền cúng tiền
– Có câu tích đức tu nhân
Hoạn nạn tương cứu, phú bần tương tri
Tứ diệu đế, mà căn cốt là Tam pháp ấn – Vô thường, Vô ngã, Niết Bàn – đã xây dựng nền tảng triết lý cho thái độ sống an nhiên, buông bỏ buộc ràng nô lệ với vật dục, buông bỏ ý thức vị kỷ, phấn đấu cho những giá trị tinh thần, những quan hệ nhân sinh cao đẹp.
3. Cấu trúc hệ giá trị đạo đức Phật giáo Việt Nam
Từ đầu đến đây, qua khảo sát sự thể hiện những phạm trù, những khái niệm triết học – đạo đức Phật giáo Ấn Độ trong ca dao tục ngữ Việt Nam, có thể thấy những giá trị luân lý đã được dân tộc ta ưu tiên lựa chọn, nhấn mạnh, những khía cạnh đã được điều chỉnh qua bộ lọc tinh thần dân tộc. Nhưng, như ở trên đã trình bày, hệ giá trị không chỉ là tập hợp của những giá trị đơn lẻ. Còn cần phải làm sáng tỏ cấu trúc của hệ thống những giá trị đạo đức Phật giáo Việt Nam.
Trục chính của hệ giá trị ấy là tư tưởng theo Thiện tránh Ác. CDTNPGVN có nhiều đơn vị thể hiện tư tưởng này qua nhiều cách diễn đạt khác nhau
Có thể thấy, Ác trong quan niệm dân gian Việt Nam được đồng nghĩa với dữ, gian tà, vô nhân bạc nghĩa, ngược lại, Thiện được cụ thể hóa trong các khái niệm lương thiện, chính nghĩa, nhân đức, ăn ở đầy đặn, thủy chung (có hậu), và nhất là hiền, lành.
Gắn với hình tượng Đức Phật như mẫu mực đạo đức lý tưởng là các thành ngữ Hiền như Bụt – Lành như Bụt – Nhà rách có Bụt hiền… Đối lập Bụt – Ma cũng xoay quanh tiêu chí hiền / dữ, lành / dữ:
– Phật hiền không thờ, quỷ dữ phải cúng
– Lành với Bụt, chẳng ai lành với ma
Và phụng thờ Đức Phật không gì bằng noi gương Người:
– Lễ Phật thì đặng việc hiền
Bao nhiêu nghiệp chướng, não phiền đều tan
Dân gian cũng nói Im như Bụt. Chính Đức Phật được tôn xưng như Sakya Muni – “Đấng Im Lặng của bộ tộc Sakya”, “Đấng Im Lặng” với ý nghĩa là “bậc hiền triết”, “bậc đại sư thuyết giảng bằng niềm im lặng”. Tuy nhiên, hàm ý trong cách nói dân gian dường như không chạm tới nghĩa triết học cao sâu ấy mà chỉ giản dị thể hiện thái độ im lặng, nhún nhường, không tranh cãi, nhưng là sự im lặng đầy năng lực.
– Im lặng như Chánh Pháp
– Im như Bụt mọc trên chùa
Con vào chánh điện đừng đùa với sư
– Cúi lạy con phải từ từ
Đừng có vội vã mà hư thân mình
Bên cạnh Đức Phật / Bụt, ca dao tục ngữ Việt Nam nhắc nhiều đến Bồ Tát (Boddhisattva) trong khi hầu như không thấy hình tượng La Hán (Arahat). La Hán chủ yếu tự tu dưỡng bản thân trong khi Bồ Tát nỗ lực cứu nhân độ thế. Điều này cho thấy rõ tính chất Đại thừa trong Phật giáo Việt Nam, đề cao hạnh tu vì người hơn vì mình.
Mẫu mực đạo đức lý tưởng nơi Bồ Tát cũng được nhấn mạnh ở phẩm chất hiền, lành, từ bi, vị tha:
– Xin mở lòng Bồ Tát, tỏ đức hiếu sinh ra tay cứu độ đối lập với những kẻ dữ, kẻ ác, ích kỷ hại nhân:
– Của người Bồ Tát, của mình lạt buộc
– Miệng Bồ Tát, giấu dao mác sau lưng
Hai trụ cột của Phật giáo là Trí huệ và Từ bi. Phật giáo dân gian Việt Nam nhấn mạnh hơn ở Từ bi. Trong ca dao tục ngữ Việt Nam, Quan Thế Âm, vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh, xuất hiện khá nhiều trong khi hầu như không thấy Văn Thù Sư Lợi, vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí huệ.
Nói đến Đức Phật, Bồ Tát, ca dao, tục ngữ Việt Nam ngợi ca mẫu mực của Tâm: Tâm Phật – Tâm bồ đề – Tâm Bồ Tát – Lòng Bồ Tát… Khái niệm Tâm có trường hợp thể hiện ảnh hưởng Thiền tông nhưng phần lớn mang nghĩa rộng lớn của tinh thần tỉnh thức, giác ngộ, tâm hồn cao thượng, thanh sạch, đạo đức ngời sáng:
– Phật tại tâm trung / Phật tại tâm
– Chân tâm tức Phật
– Phật tức tâm, tâm tức Phật
Vì thế, tu theo Phật cốt ở Tu tâm, thờ Phật thì Trước Phật đài, tâm hương một nén, Lễ bạc (nhưng) tâm thành.
Tâm bao gồm cả hiểu biết, tâm sáng cho người ta thấu suốt chân lý đời sống
– hiền minh của tâm sáng vượt trên khôn ngoan, khôn khéo cạn cợt của thế gian:
– Khôn dại tại tâm
Tâm trở thành tiêu chí quan trọng để đánh giá con người:
– Ở lâu mới biết con người có tâm
Giữa Ở lâu mới biết con người có tâm và Ở lâu mới biết con người có nhân, khó xác định câu nào phổ biến hơn, câu nào là dị bản. Tâm và Nhân có thể dùng đắp đổi, như đồng nghĩa với nhau. Tâm và Từ Bi có phần cũng như vậy, gắn kết thành một: Tâm từ, Từ tâm. So với chữ Nhân Nho giáo, sắc thái riêng của chữ Nhân Phật giáo có lẽ là ở trong quan hệ với Tâm và Từ Bi. Nhân – Tâm – Từ bi Phật giáo thể hiện tình yêu thương vị tha, không chỉ tình yêu thương giữa người và người mà đối với tất cả chúng sinh.
Tình thương yêu ấy bắt đầu từ những quan hệ gia đình, họ hàng, bè bạn gần gũi nhất. Trong đó, đặc biệt nổi bật một chữ Hiếu. Hiếu là một phạm trù lớn của Phật giáo, được dân gian Việt Nam tiếp thu một cách nhiệt thành. CDTNPGVN có đến 38 đơn vị thành ngữ, tục ngữ, ca dao thể hiện chữ Hiếu mang ảnh hưởng Phật giáo.
– Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật
– Phật dạy chữ hiếu làm đầu
Mà ai giữ được đạo mầu mới trao
– Vai mang bức tượng Di Đà
Hiếu Trung ta giữ, gian tà mặc ai
Hiếu với cha mẹ được đề cao như con đường tu tập chân chính nhất – tu nhà còn hơn tu chùa:
– Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu
– Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ bằng ba tu chùa
– Ai về lập miếu thờ vua
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha
Mẹ cha chính là Bồ Tát, là Phật trong nhà, “Bụt nhà”[1]:
– Chuối chát măng khô bốn mùa chịu khổ
Em tu hành anh chỉ chỗ em tu
Kìa kìa hai vị Phật sinh
Cha già mẹ yếu em bỏ đành đi tu
– Cha già là Phật Thích Ca
Mẹ già đích thị Phật Bà Quan Âm
– Trong nhà đầu bạc phơ phơ
Tây sinh Bồ Tát phượng thờ vi tiên
– Bụt nhà không thiêng, thờ Thích Ca ngoài đường
Trong CDTNPGVN có 17 bài ca dao về tâm tình của những người con mùa Vu Lan, nguyện cầu cho cha mẹ, người trong kiếp sống hiện tiền được an lành, người rời cõi thế được sinh về Lạc thổ:
– Lên chùa dự lễ Vu Lan
Cầu cho cha mẹ thoát đàng tử sinh
– Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lên chùa lạy Phật đền ơn sinh thành
Nếu trong chữ Hiếu Nho gia, hình ảnh người cha đóng vai trò chủ đạo thì chữ Hiếu mang ảnh hưởng Phật giáo lại có phần hướng về người mẹ. Vu Lan gắn với câu chuyện cảm động của “Hiếu thân Bồ Tát” Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi địa ngục.
Chữ Hiếu Nho gia đòi hỏi con cái vâng lời, phụng dưỡng, thờ kính cha mẹ. Người con hiếu theo quan niệm đạo đức Phật giáo còn phải biết hướng mẹ cha về niềm tin Chánh Pháp:
– Sắc thân hiếu dưỡng ân cần
Đâu quên giáo đạo tinh thần mẹ cha
– Dốc lòng niệm Phật không lơi
Cầu cho cha mẹ thác thời siêu sanh
Khuyên mẹ niệm Phật cho chuyên
Thì hoa sen đợi ở bên Liên trì
Hiếu với cha mẹ trong đạo đức Phật giáo còn mở rộng thành tình thương yêu muôn loài chúng sinh bởi theo triết lý Luân hồi, qua vô vàn những kiếp sống, tất cả chúng sinh có thể đều từng là cha mẹ ta:
– Song thân đâu phải một đời
Vậy nên thương cả muôn loài mới hay
Chữ Hiếu đã kết hợp tinh thần Chánh pháp cùng những gốc rễ luân lý nhân bản sâu xa trong truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Có thể xem chữ Hiếu như vậy tiêu biểu cho cách thức cấu trúc hệ giá trị đạo đức Phật giáo Việt Nam.
Cuối cùng, xin trở lại vấn đề trục chính của hệ giá trị đạo đức Phật giáo Việt Nam là tư tưởng Theo Thiện tránh Ác. Trong khi bên Nho gia, Mạnh Tử hùng hồn tuyên bố: Nhân chi sơ tính bản thiện thì bên Pháp gia, Tuân Tử dứt khoát khẳng định: Nhân chi sơ tính bản ác. Xa lạ với thái độ cực đoan siêu hình, Phật giáo nhìn sự hình thành, phát triển tâm tính / nhân cách con người một cách biện chứng. Tự Ngã thường được hình dung như thỏi đất sét, mềm dẻo, không ngừng được nhào nắn, khuôn đúc qua mỗi tác ý, mỗi hành động của người ta. Phân chia tuyệt đối hai phe người thiện – kẻ ác khó tránh khỏi sai lầm định kiến, bởi đúng hơn, trong chính mỗi chúng ta đều có ánh sáng cùng bóng tối, cao cả cùng thấp hèn… và luôn luôn là cuộc đấu tranh giữa hai thế lực đối lập ấy. Đức Phật từng dạy: Thắng hàng vạn quân, hàng vạn lần trên chiến địa không khó khăn bằng chiến thắng chính bản thân mình, không khó khăn bằng tự thắng. Dân gian Việt Nam thấm nhuần triết lý đó, và diễn đạt một cách giản dị:
– Phật với ma như cha với con
– Dầu cho Phật, Bồ Tát cũng phải sa
– No nên Bụt, đói ra ma
Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta
Lời cảnh tỉnh người ta luôn phải cầm giữ nhân cách đạo đức của mình vang lên, từ tốn mà thấm thía.
* *
*
Qua ca dao, tục ngữ, có thể nhận thấy ảnh hưởng lớn lao của Phật giáo trong văn hóa đạo đức Việt Nam. Dân gian thường không quá băn khoăn với những phạm trù triết học cao sâu mà chủ yếu quan tâm ý nghĩa đạo lý làm người. Tiếp biến ảnh hưởng Trung Hoa và Ấn Độ, Việt Nam đã lựa chọn và cấu trúc nên một hệ giá trị đạo đức mang tinh thần Phật giáo đồng thời đậm nét bản sắc riêng, hệ giá trị đạo đức góp phần hun đúc nên một dân tộc nhân ái, hiếu hạnh, hiền hòa, vị tha.
_________
[1] Người chồng cũng được xem như “Bụt nhà” mà người vợ dốc lòng thờ phụng: Chẳng thiêng cũng thể Bụt nhà / Dẫu rằng vụng dại cũng là chồng em. Tuy nhiên, chỉ có 1 bài ca dao thể hiện ý này.
Tp. Hồ Chí Minh, Mùa Vu Lan 2009
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU
1. Barker, Chris 2004: The sage dictionary of Cultural studies. Sage Publications. London, Thousand Oaks, New Delhi.
2. Lệ Như Thích Trung Hậu (sưu tập) 2002: Ca dao tục ngữ Phật giáo Việt Nam. NXB. Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Olendzki, Andrew 2008: “Chúng ta là những việc mình làm” (Nguyễn Duy Nhiên dịch). Pháp luân, số 58.
4. Phan Ngọc 1994: Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới. NXB. Văn hóa Thông tin.
5. Phan Quốc Anh: “Hệ giá trị và chuẩn mực của văn hóa”. http://www.phanquocanh.com
6. Trần Ngọc Thêm 2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB. Tổng hợp Tp. HCM.
7. Vũ Khiêu 1996: Bàn về văn hiến Việt Nam (Tập I). NXB. Khoa học xã hội.
Nguồn: Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Hệ giá trị đạo đức phật giáo trong văn hóa Việt Nam (qua ca dao, tục ngữ) (Tác giả: PGS.TS Phan Thu Hiền) |