Khám phá những ngôi chùa độc đáo ở Sóc Trăng
DISCOVERING UNIQUE PAGODAS IN SOCTRANG PROVINCE
Tác giả bài viết: Tiến sĩ Nguyễn Lâm Điền1, Nguyễn Mỹ Bảo Châu2 và Đặng Thị Bảo Dung2
(1Khoa Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Tây Đô,2Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô)
TÓM TẮT
Sóc Trăng là tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nơi hội tụ nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, tạo nên nét văn hoá đa dân tộc đặc sắc. Hệ thống các chùa chiềng mang nét văn hoá của dân tộc Kinh, Hoa, Khmer cũng theo đó mà được xây dựng khang trang, uy nghi thể hiện niềm tin, tín ngưỡng của các Phật tử. Mỗi chùa có một sắc thái, phong cách đặc sắc riêng mang nét đặc trưng của dân tộc. Đã từ lâu, một số ngôi chùa ở Sóc Trăng là điểm đến không thể thiếu của du khách gần xa. Trong đó, Chùa Dơi, chùa Chén Kiểu, chùa Đất Sét, chùa Kh’ leng là bốn ngôi chùa nổi tiếng nhất mà bất cứ ai khi đến Sóc Trăng cũng phải ghé qua một lần. Sóc Trăng là vùng đất có trên 200 ngôi chùa lớn nhỏ của 3 dân tộc Kinh – Khmer – Hoa (dân tộc Khmer chiếm tỷ lệ gần 29%). Vì thế khi đặt chân đến Sóc Trăng, hầu như huyện, xã nào cũng có sự hiện diện những ngôi chùa lớn nhỏ khác nhau, tạo nên quần thể kiến trúc đẹp mắt, linh thiêng và tôn vinh các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống của vùng đất Sóc Trăng nói riêng và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Từ khoá: Đồng bằng sông Cửu Long, Sóc Trăng, chùa Dơi, chùa Chén Kiểu, chùa Đất Sét, chùa Kh’Leng.
ABSTRACT
Soc Trang, a province in the Mekong Delta, is a place in which there are some ethnic groups living together, creating a special multiethnic culture. Many impressive and spacious pagodas in Vietnamese, Chinese and Cambodian cultures were built to express Buddhists’ belief. Each pagoda has its own particular nuance and style representing its national characteristics. Some pagodas in Soc Trang have been tourists’ indispensable destinations. Among them, four famous pagodas including Doi pagoda (Bat pagoda), Chen Kieu pagoda (Porcelain pagoda), Dat Set pagoda (Clay pagoda) and Kh’leng pagoda are indispensable places where visitors shouldn’t miss when coming to Soc Trang. There are over 200 pagodas of Vietnamese, Chinese and Cambodian cultures (Cambodian styles account for 29%). Therefore, it is no wonder that most districts and communes here have numerous pagodas of with different dimensions, creating a beautiful and sacred architecture, honoring the traditional cultural values of Soc Trang in particular and the Mekong Delta in general.
Từ khoá: Bat pagoda, Chen Kieu pagoda, Dat Set pagoda, Kh’leng pagoda, Soc Trang, the Mekong Delta.
x
x x
1. Giới thiệu
Nhiều loại hình du lịch đang phát triển ở Việt Nam với đặc thù về văn hoá, Việt Nam đang phát triển một loại hình du lịch mới, đó là du lịch tâm linh. Du lịch tâm linh là một loại hình du lịch văn hóa tâm linh, lấy yếu tố tâm linh là mục tiêu để thỏa mãn nhu cầu từ con người. Chính vì thế du lịch tâm linh được diễn ra bằng các hoạt động khai thác giá trị văn hóa phi vật thể, nhận thức của con người về tín ngưỡng, tôn giáo, yếu tố tâm linh, và những điều đặc biệt khác để thỏa mãn nhu cầu của con người. Theo đó du lịch tâm linh mang đến cho khách du lịch những cảm xúc thiêng liêng và giá trị tận sâu tâm hồn. Trong những năm gần đây, ngành du lịch tại Việt Nam đang trên đà phát triển khá mạnh mẽ, trong đó là loại hình du lịch tâm linh đã góp một phần quan trọng vào sự phát triển này. Hiện nay các điểm du lịch tâm linh thu hút sự chú ý của các du khách là các khu thờ tự, vùng đất thiêng liêng gắn với lịch sử, với con người, các chùa, miếu, đền thờ, đài, tòa thánh, lăng tẩm. Khi kể đến các chùa chiềng cổ kính, đền miếu nổi tiếng tại đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL), du khách không thể bỏ qua địa danh Sóc Trăng. Sóc Trăng được biết đến là nơi giao thoa của 3 nền văn hoá Kinh, Hoa và Khmer. Vì thế, những ngôi chùa ở đây luôn mang đến một nét độc đáo, huyền bí và là điểm đến lý thú mà nhiều du khách tâm linh muốn ghé qua một lần. Bài viết này nhằm điểm qua một số ngôi chùa đặc sắc nhất của văn hoá Khmer tại Sóc Trăng.
2. Một số ngôi chùa đặc sắc ở Sóc Trăng
2.1. Chùa Dơi
Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 600 ngôi Chùa của đồng bào dân tộc Khmer. Chùa Dơi tại Sóc Trăng nổi lên như một quần thể kiến trúc đẹp và độc đáo bậc nhất. Chùa Dơi hay Chùa Mã Tộc, Chùa Mahutup là quần thể kiến trúc tiêu biểu trong tín ngưỡng của đồng bào Khmer. Nằm cách trung tâm thành phố Sóc Trăng khoảng 3 km hướng về phía Đông Nam. Đến đây, du khách sẽ không chỉ chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo của ngôi chùa cổ hơn 400 năm tuổi mà còn được hoà mình trong thiên nhiên huyền bí với những con dơi treo treo mình khắp trên những tán cây trong khuôn viên của Chùa.
Ngay từ lối vào, du khách sẽ bị choáng ngợp bởi màu vàng rực rỡ và tươi sáng bao phủ gần như toàn bộ chùa Dơi. Bên trong sảnh của ngôi đền chính là tượng Phật Thích Ca nguyên khối cao khoảng 1,5 m, ngồi cao trên ngai sen, với những bức tượng Phật nhỏ khắp xung quanh, bao quanh là các bức tường được trang trí với những bức tranh sinh động theo phong cách dân gian.Bạn cũng sẽ bắt gặp ở đây các hoạ tiết điển hình của kiến trúc Khmer với các tháp nhỏ trên mái nhà chùa, phía đầu hồi chạm trổ hình rắn thần Naga.Ngoài sảnh chính điện, có nhiều bảo tháp chứa xá lợi (di hài) của các nhà sư quá cố và nhà ở của các sư…
Sự hấp dẫn của chùa Dơi cũng xuất phát từ khu vườn rộng lớn với nhiều cây cổ thụ xen kẽ với những loài cây ăn quả như xoài, vú sữa, sầu riêng và măng cụt.Du khách có thể đi dạo trong vườn và tận hưởng không gian mát mẻ. Ngoài ra còn hồ nước kè bằng đá, mang lại cảm giác yên bình và trong lành cho du khách.
Điểm đặc sắc ở Chùa Dơi chính là hàng ngàn con dơi treo mình lủng lẳng trên cây như trái cây. Vào mùa cao điểm, ngôi chùa thu hút hơn một triệu con dơi. Những con dơi trong đền là những loài dơi dơi hiếm, có trọng lượng từ 1 đến 1,5 kg và sải cánh rộng 1,5 m. Mặc dù những con dơi ăn quả sống trong vườn sum suê cây trái, chúng không bao giờ ăn trái cây trong chùa. Chúng thường bay rất xa để tìm thức ăn.
Có rất nhiều ngôi chùa thanh tĩnh với cây cổ thụ ở Sóc Trăng nhưng những con dơi lớn chỉ chọn ngôi đền này là nhà của chúng và đây là một bí ẩn cho người dân. Chúng chỉ đậu trên cây trong khu đền, tuyệt nhiên không đậu ở bên ngoài. Khi hoàng hôn buông xuống, ngôi đền nhộn nhịp khác lạ với âm thanh của bầy dơi. Đó là thời gian những con dơi rời khỏi ngôi đền để tìm kiếm thức ăn. Thật kỳ lạ, chúng luôn bay hàng và lượn vài vòng trên bầu trời khu vực chùa, không bao giờ bay thẳng qua nóc ngôi chính điện. Mọi người liên tưởng điều này giống như lời kêu gọi ban phước của những con dơi từ Đức Phật trước khi bay ra ngoài. Ngoài những con dơi, những câu chuyện về heo với năm móng làm cho ngôi đền cổ ở Sóc Trăng ngày càng đắm chìm trong những màu sắc huyền bí. Người Khmer tin rằng lợn có năm móng là ma quỷ và bất cứ gia đình chăn nuôi lợn như vậy sẽ gặp phải bất hạnh. Vì vậy, trong hơn 20 năm, các gia đình người Khmer đã đưa những con lợn với năm con móng vào Chùa. Những con lợn này được chăm sóc và chôn ở đây sau khi chúng chết. Đến với chùa Dơi, du khách không khỏi ngạc nhiên trước vẻ đẹp tự nhiên có thể nói là một vùng đất kỳ bí “đất lành chim đậu”. Năm 1999 Chùa Mahatup được Bộ văn hóa – Thông tin (nay gọi là Bộ VHTTDL) công nhận là di tích kiến lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Chùa Dơi tọa lạc tại đường Văn Ngọc Chính, phường 3, TP Sóc Trăng. (Theo website VnExpress Du lịch).
2.2. Chùa Chén Kiểu
Còn gọi là chùa Sà Lôn nằm trên quốc lộ 1A, cách thành phố Sóc Trăng 12km, hướng từ thành phố Sóc Trăng đi Bạc Liêu. Tương truyền, chùa Sà Lôn được dựng bằng cây lá từ năm 1815, và được trùng tu nhiều lần. Trong chiến tranh, chùa bị bom đạn đánh sập ngôi chánh điện. Năm 1969, sư cả Tăng Đuch (trụ trì đời thứ 9) quyết định dựng lại ngôi chùa gồm: Chánh điện, sala, nhà Tăng, nhà để sách kinh, khu tháp, v.v… bằng vật liệu kiên cố. Đến năm 1980, việc xây dựng cơ bản hoàn thành. Nhưng do thiếu kinh phí, nên nhà chùa có sáng kiến dùng chén dĩa kiểu để trang trí phần sau ngôi chánh điện. Tên chùa Chén Kiểu bắt nguồn từ đó. Nét đặc sắc ở ngôi chùa là sử dụng những chén, dĩa sứ ốp lên tường trang trí nên có tên gọi là chùa Chén Kiểu.
Chùa tọa lạc trong một khuôn viên rất rộng với nhiều cây xanh. Hai bên cổng ngự hai con sư tử bằng đá trên bệ cao, hướng ra lộ. Trên cổng xây ba ngôi tháp, được trang trí theo kiến trúc truyền thống của đồng bào Khmer ở Nam Bộ. Tháp chính nằm ở giữa, màu vàng, bên trong có lồng kính, tôn trí một pho tượng Phật ngồi uy nghi. Trên thành cổng là tên chùa bằng chữ Khmer và chữ Việt (chùa Sà Lôn). Ngôi chính điện là một tòa nhà kiên cố và rộng lớn. Nền lát gạch bông, và phần lớn các mảng tường ở đây cũng đều được ốp gạch men (đủ màu, và lớn nhỏ khác nhau) thời hiện đại. Cũng giống như những ngôi chùa Khmer khác, mái chánh điện chùa chùa Sà Lôn được xây dựng theo dạng tam cấp, tức có 3 nếp, nếp dưới cùng lớn nhất và nhỏ dần ở bên trên. Nếp trên cùng có hình tam giác, hai đầu đao mỗi bên cong lên, và nơi trung tâm có đỉnh nhọn cao vút. Mái được trang trí nhiều họa tiết với màu sắc rất đẹp mắt. Mặt sau chính điện là một mảng tường đắp nổi bởi nhiều mảnh chén kiểu vỡ rất sắc sảo. Phía trong chánh điện có đặt một bàn thờ, và chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca. Có khoảng 20 tượng phật ở đây; lớn, nhỏ đứng ngồi nhiều tư thế khác nhau, và các gương mặt đều nhìn về hướng Đông để ban phúc.
Về kiến trúc, ở đây có 16 hàng cột to chống đỡ mái, và đều được dán bằng gạch men. Trên trần có trang trí họa tiết nhiều màu sặc sỡ, và hai bên bức tường có nhiều tranh vẽ kể về cuộc đời của Phật Thích Ca. Giữa sân chùa Sà Lôn là một cột cờ với hình tượng rắn thần Nagar xòe 5 đầu, nhắc đến điển tích rắn xòe đầu ra để che mưa cho Phật Thích Ca khi người tọa thiền. Bao quanh khu cột cờ này, là các dãy nhà nhằm phục vụ cho việc tu học của các sư sãi. Phía sau chùa là Khu vườn Phật Thích Ca. Đây là quần thể kiến trúc gồm nhiều tượng Phật lớn nhỏ, mô phỏng khá sinh động quá trình ra đời, đi tìm chân lý, giác ngộ cho đến khi nhập cõi Niết-bàn của đức Phật ấy. Đặc biệt, chùa Sà Lôn còn lưu giữ một số đồ gỗ được nhà chùa mua lại trong phần gia sản của “Công tử Bạc Liêu” (Trần Trinh Huy) năm 1947, với giá khá cao. Đó là chiếc tủ cẩn xà cừ, bộ trường kỷ cùng 2 chiếc giường ngủ mùa đông và mùa hè. Tất cả đều được chạm, khảm rất tinh tế… Hiện nay ngoài số tín đồ Phật tử là người Khmer, chùa Sà Lôn còn thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước đến hành hương hay vãn cảnh. ((Nguồn: Theo website Du lịch Việt Nam)
2.3. Chùa Đất sét
Chùa Đất Sét tọa lạc tại số 163, đường Tôn Đức Thắng, phường 5, TPST.
Chùa Đất Sét ở Sóc Trăng có tên chữ Bửu Sơn Tự, là ngôi chùa nổi tiếng của tỉnh bởi hàng nghìn pho tượng bằng đất sét được chế tác công phu trong suốt 42 năm ròng rã. Đây còn là ngôi chùa hiếm hoi có kiến trúc thuần Việt, giữa đa phần là các ngôi chùa Khmer đặc trưng ở vùng đất này. Trong chùa còn lưu giữ 1.991 pho tượng Phật lớn nhỏ, được nặng từ đất sét, không chỉ là những bức tượng phật mà còn có những hình hài, linh thú, tháp đa bảo 13 tầng, được tạo bằng đất sét với những họa tiết tinh tế đòi hỏi kĩ thuật tay nghề cao mới làm được. Chùa Đất Sét là nơi thờ tự của nhà họ Ngô ở Sóc Trăng vì vậy không có sư sãi ở, chỉ có những người trong họ chăm lo khói hương và giữ chùa. Ngôi chùa đã qua 06 đợi trụ trì cho đến hôm nay. Người có công lớn, xây dựng ngôi chùa là ông Ngô Kim Tòng, người trụ trì đời thứ tư ở ngôi chùa này. Với bàn tay tài hoa chưa học qua lớp mỹ thuật nào, Ông đã dày công xây dựng, nặn lên các pho tượng lớn nhỏ trong chùa chỉ bằng một vật liệu duy nhất là đất sét.
Du khách không khỏi ngạc nhiên trước tài năng và sức lao động của ông đã tạo các tác phẩm có một không hai trong các ngôi chùa ở Việt Nam.
Chùa Đất Sét không chỉ nổi tiếng bởi hàng ngàn pho tượng làm bằng đất sét, cột chùa cũng được ốp bằng đất sét, mà còn được nhiều người biết đến bởi 4 đôi nến (đèn cầy) cao lớn được đúc năm 1940. Trong đó, có ba đôi mà mỗi cây cao 2,6 m, ngang 1 m, và được đúc bằng 200 kg sáp. Cặp còn lại nhỏ hơn, và mỗi cây được đúc bằng 100 kg sáp. Tổng cộng là 1,4 tấn sáp. Để đúc được nó phải dùng sáp nguyên chất, chặt nhỏ, cho vào chảo nấu lỏng, đổ vào khuôn (dùng tôn lợp nhà cuộn lại). Sau một tháng, nến nguội rồi mới gỡ khuôn ra và trang trí. Hiện nay, hai nến nhỏ vẫn cháy suốt ngày đêm từ khi ông Ngô Kim Tòng qua đời (ngày 18 tháng 7 năm 1970) mà vẫn chưa hết. Phỏng tính bình quân mỗi cây nến cháy suốt ngày đêm phải mất 70-80 năm. Ngoài ra, tại đây còn có 3 cây hương (nhang), mỗi cây cao 1,5 m, nặng 50 kg và hiện chưa được đốt.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều điều để khám phá ngôi chùa này như:
– Pho tượng “Bảo tòa thỉnh Phật trụ thế truyền tháp luận” có đến 1000 cánh sen, mỗi cánh sen là một vị thần ngự. Phía dưới đài sen lại có “Bát quái Thiên tiên” gồm 8 cung, đó là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài”. Mỗi cung có hai tiên nữ đứng hầu; dưới đài sen và Bát quái có Tứ Đại Thiên vương trấn giữ.
– Tháp Đa Bảo cao 3,5 m, có 13 tầng với 208 cửa vị thần, và dưới chân tháp có 126 con rồng nâng đỡ tháp. Ngoài ra, còn có lục long đăng (có 3 chóp đỉnh lớn), 7 lư hương nhỏ và các cặp Kim Lân, Thanh Sư, Bạch Tượng, Bạch Hổ, Long Mã… đều là những hiện vật được tạo tác khá tinh xảo. Tháng 3 năm 2011, chùa Đất Sét đã được UBND tỉnh Sóc Trăng công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa (thuộc lĩnh vực kiến trúc – nghệ thuật) cấp tỉnh.
2.4. Chùa Kh’leang
Chùa Kh’Leang hay còn được gọi là Khléang, là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Sóc Trăng, có tuổi thọ gần 500 năm, được xây dựng vào khoảng năm 1533, giữa thế kỷ thứ 16. Chùa tọa lạc trên diện tích đất hơn 3.800m2, có hàng rào bao quanh. Giống như các ngôi chùa Khmer khác như chùa Dơi hay chùa Đất Sét, cổng chùa Kh’Leang quay về hướng Đông, được chạm khắc cầu kỳ, trên mái cổng có ba tháp nhỏ. Tương truyền, ban đầu chùa được xây cất bằng gỗ và lợp lá, rồi dần mới xây bằng gạch và lớp ngói, với trang trí, đường nét kiến trúc đẹp. Chùa Kh’leang được xây trên nền đất cao rộng, không gian thông thoáng, xung quanh có nhiều cây xanh đặc biệt là cây thốt nốt, loại cây đặc trưng của người Khmer, dưới mỗi gốc cây đặt những băng ghế đá dùng để nghỉ chân tạo cho du khách một cảm giác hết sức thoải mái, mát mẻ. Chùa được bao quanh bằng ba vòng rào với khoảng cách rộng. Trước chùa có hai tháp hình bầu dục ở hai bên tả hữu, dùng để hài cốt các vị trụ trì. Cổng chùa được trang trí hoa văn cầu kỳ với mầu sắc rực rỡ mang đậm phong cách văn hoá Chăm. Bên trong chính điện có 16 cột bằng gỗ to, đen mượt được thiếp vàng thể hiện các hình ảnh nói về cuộc đời đức Phật từ lúc sinh ra cho tới khi đắc đạo, về sinh hoạt Phật pháp.Trên trần và tường được vẽ nhiều hình ảnh, hoa văn, thể hiện sự hoà hợp giữa phật pháp và hội hoạ. Nơi chính điện là bức tượng Phật to ngồi trên toà sen lộng lẫy tạo nên sự uy nghiêm thanh thoát. Đặc biệt, trong số 45 tượng Phật Thích Ca ở đây, có một tượng cao 6,8 m, phần thân tượng cao 2,7m, ngồi trên tòa sen lộng lẫy, xung quanh bài trí hoa lá, cây trái. Sau lưng pho tượng có tấm bia khắc chữ Khmer ghi: “Đại đức Liêu Đuông, đời truyền thừa thứ 17, trụ trì chùa từ năm1893 đến năm 1928, đã tạo tượng đức Phật vào năm Phậtlịch 2460 với sự cúng dường của gia đình ông Lum Sun“. Trong chùa còn trưng bày các vật dụng của người Khmer xưa như một cách bảo tồn và phát huy nét sinh hoạt văn hoá cổ xưa của dân tộc mình. Bộ mái chùa cũng được xây dựng theo kiểu tam cấp và mỗi cấp được chia thành 3 nếp. Nếp giữa lớn hơn nếp phụ ở hai bên và không có tháp nóc chùa. Mái chùa cũng được trang trí bằng các phù điêu hình chim thú cũng như là những hình ảnh tượng trưng cho triết lý nhà Phật. Có thể nói toàn bộ mái chùa là một công trình kiến trúc độc đáo thể hiện quan niệm, triết lý về mối giao hoà giữa Phật – Con người – Trời của người Khmer.
Hàng năm, bên cạnh các lễ hội tôn giáo, chùa Khléang còn tổ chức các lễ truyền thống của dân tộc Khmer, như lễ Chol Chnam Thmay (lễ vào năm mới, còn gọi là lễ chịu tuổi), lễ Dolta (lễ cúng ông bà), lễ Ooc Om Boc (lễ cúng trăng) vào ngày 15-10 âm lịch và tổ chức đua ghe ngo… Chùa Kh’leang được công nhận là một di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 84/QĐ-BVHTT ký ngày 27 tháng 4 năm 1990 của Bộ Văn hoá và Thông tin (Theo Chùa Kh’leang – Cảm nhận Việt Nam – vncgarden.com; Chùa Kh’Leang – VOV Viet Nam Journey – website: truyenhinhdulich.vn).
3. Kết luận
Sóc Trăng không chỉ nổi tiếng về những cánh đồng lúa bạt ngàn, các dân tộc Kinh – Hoa- Khmer sống với nhau hoà thuận như anh em, con người ở nơi đây chân chất thật thà, mà Sóc Trăng còn nổi tiếng về các ngôi chùa mang đậm bản sắc dân tộc, quần thể kiến trúc độc đáo, những câu chuyện tâm linh kỳ ảo. Với một nền văn hóa đặc sắc và khá riêng biệt mà có thể gọi là: “văn hoá xứ giồng“, thể hiện qua các mặt trong đời sống hằng ngày của người Sóc Trăng, từ ngôn ngữ, mối quan hệ , tên đất, tên làng đến tín ngưỡng tôn giáo, ẩm thực và lễ hội của người Kinh, Hoa, Khmer. Đây chính là điểm đến lý tưởng để có thể hoà mình vào những ngôi chùa nhiều năm tuổi mang trong mình những câu chuyện riêng, đặc sắc của từng dân tộc và bí ẩn của những câu chuyện đằng sau nó, Sóc Trăng chính là điểm đến không thể nào bỏ qua đối với những du khách tâm linh yêu quý điều kỳ bí, huyền ảo, kiến trúc cổ mang đậm bản sắc dân tộc và dấu ấn thời gian.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alex Norman, 2011. Spiritual Tourism: Travel and Religious Practice in Western Society, Continuum Advances in Religious Studies, pp. 193- 196.
2. Farooq Haq and John Jackson, 2009. Spiritual Journey to Hajj: Australian and Pakistani Experience and Expectations. Journal of Management, Spirituality and Religion, Vol. 6, No. 2, pp. 141-156 Website: http://sss.ctu.edu.vn/documen/2014-32-(121-128).pdf.
3. Hồ Kỳ Minh (chủ nhiệm), 2013. Nghiên cứu và đề xuất giải pháp phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Đề tài khoa học công nghệ cấp tỉnh, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng.
4. Nguyễn Trọng Nhân và Cao Mỹ Khánh, 2014. Đánh giá của du khách đối với những điều kiện phát triển du lịch văn hóa tâm linh tỉnh An Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục.
5. Nguyễn Văn Tuấn, 2013. Hội nghị quốc tế về du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững (Ninh Bình, 21- 22/11/2013).
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế
Trường Đại học Tây Đô, Số Chuyên đề – 2019
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Khám phá những ngôi chùa độc đáo ở Sóc Trăng (Tác giả: TS. Nguyễn Lâm Điền; Nguyễn Mỹ Bảo Châu; Đặng Thị Bảo Dung) |