LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Tây Nam Bộ trong thách thức hội nhập

1. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều lợi thế phát triển ngành nghề nông thôn. Ở Tiền Giang có hơn 6.000 cơ sở và 13 làng nghề giải quyết việc làm cho trên 85 nghìn lao động. Giá trị sản xuất làng nghề hàng năm tăng khoảng 127,3 tỉ đồng/năm, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân đạt 5,2%/năm cả giai đoạn 2006-2010. 1 Ở Bến Tre, giai đoạn 2006 – 2012, tỉnh có 18 làng nghề đạt tiêu chuẩn, với hơn 2.200 hộ, giải quyết việc làm cho gần 9.000 lao động, thu nhập bình quân 2 triệu đồng/người/ tháng. 2 Ở Vĩnh Long có 23 làng nghề với các sản phẩm đa dạng từ đất nung, đan lát, chế biến lương thực,… theo hoạt động của mỗi làng nghề, bình quân thu nhập mỗi lao động từ 600 ngàn đồng đến 1,5 triệu đồng/tháng. Giá trị sản xuất hàng năm của các làng nghề đạt khoảng 2.000 tỉ đồng. 3 Ở Cần Thơ có 32 làng nghề: mành trúc, may thêu, mộc dân dụng, sản xuất gạch ngói, nấm rơm, bánh kẹo, bánh tráng, khâu nón, dệt chiếu, đan thúng, rổ, lục bình, hàng thủ công mĩ nghệ tre, mây, trúc,… Sản phẩm mây, tre, lá buông, gốm sứ được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, trong đó xuất khẩu sang Hoa Kì, Anh, Pháp đạt 800.000 USD,… 4 Nhìn chung, hoạt động của các làng nghề không chỉ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống người dân mà còn góp phần bảo tồn và phát huy các ngành nghề truyền thống. Tuy nhiên, trong quá trình hiện đại hoá, ngoài thuận lợi thì khó khăn thách thức đối với các làng nghề trong khu vực ĐBSCL còn không nhỏ.

___________
1. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, báo cáo kết quả 05 năm thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006.

2. Sở Công thương, Báo cáo chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực sản sản xuất kinh doanh các làng nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2013 – 2020.

3. www.nguoinhaque.com.

4. www.dulichvn.orvn

2. Qua quy hoạch và thực tế làng nghề một số tỉnh miền Tây Nam Bộ, chúng ta dễ nhận thấy có một số nhóm ngành phổ biến: 1. Nhóm ngành nghề tiểu thủ công: đan đát, dệt chiếu, thảm ở Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Cần Thơ,…; chằm nón, lá ở Vĩnh Long; làm gạch, gốm ở Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ,…; nghề mộc, chạm trổ ở Tiền Giang, An Giang, Hậu Giang,…; mĩ nghệ từ cây dừa ở Bến Tre, cây mây, tre, trúc ở Cần Thơ,… 2. Nhóm ngành nghề thực phẩm như làm bánh, cốm, kẹo ở Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long,…; làm khô, dưa, nem, rượu, mắm, tương, chao,… ở một số tỉnh…; chế biến khô thuỷ sản ở hầu hết các tỉnh đồng bằng. 3. Nhóm ngành nghề nông nghiệp hoa kiểng ở Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp,… 4. Nhóm ngành nghề có thương hiệu, hiệu quả kinh tế cao, mang lại thu nhập ổn định, như: mắm Châu Đốc, mộc Chợ Mới, tủ thờ Gò Công, bàng buông Tiền Giang, bánh pía Sóc Trăng, khô Cà Mau, sản phẩm cây dừa Bến Tre và hoa kiểng Chợ Lách, Sa Đéc,…

     2.1. Thuận lợi của các ngành nghề thực phẩm là khai thác được thị trường tiêu thụ trong nước, tạo được công ăn việc làm cho người lao động và từng bước xây dựng được thương hiệu, tìm được thị trường nước ngoài, như làng nghề bánh phồng Bến Tre, bánh pía Sóc Trăng. Anh Đặng Thanh Hải, Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) bánh phồng Sơn Đốc cho biết: “Lâu nay, tại Hưng Nhượng có hàng trăm hộ lớn nhỏ làm bánh phồng. Để giúp làng nghề đi lên, đủ thực lực cạnh tranh ngoài thương trường, HTX bánh phồng Sơn Đốc đã được thành lập vào năm 2001. Hiện tại, HTX có 19 hộ ở xã Hưng Nhượng là xã viên. Một hộ xã viên có trung bình 10-15 lao động… Bánh phồng Sơn Đốc cũng đã đăng kí thương hiệu năm 2002” 1. Còn về nghề bánh pía ở Sóc Trăng, được biết: “Hiện nay, nhờ biết cách quảng bá, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường, nhiều doanh nghiệp sản xuất bánh pía ở Sóc Trăng không chỉ mở rộng thị trường ra phạm vi cả nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Điển hình như trường hợp Công ti Chế biến thực phẩm bánh pía – lạp xưởng Tân Huê Viên, doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn quản lí chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm từ năm 2009, đã mở đại lí tại Phnom Penh (Campuchia) và đang xúc tiến mở thêm một đại lí ở CHLB Đức. Mới đây, Tân Huê Viên xuất khẩu sang Mĩ 40 tấn bánh pía và dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng thị trường sang châu Âu, sau khi đầu tư trên 20 tỉ đồng nâng cấp hệ thống nhà xưởng và công nghệ sản xuất.” 2

     Ngoài ra, nhóm ngành nghề chạm trổ, đan lát, dệt may, cũng tận dụng được thời gian lao động nhàn rỗi, lại có thuận lợi là sản xuất tại nhà, tiền đầu tư cho công cụ sản xuất không cao nên cũng thu hút được nhiều lao động tham gia, như nghề đan giỏ, nón xuất khẩu đi các nước Âu – Mĩ bằng nguyên liệu bàng buông ở Thân Cửu Nghĩa (Châu Thành, Tiền Giang), thu hút vài ngàn lao động địa phương và mang lại thu nhập cũng trên 4 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, tỉnh cũng đã lồng ghép thực hiện các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề để hỗ trợ máy móc, thiết bị cho các làng nghề. Đã hỗ trợ 48 máy se đay và 34 khung dệt chiếu cho 48 hộ nghèo ở làng nghề truyền thống dệt chiếu Long Định (đến nay đã thoát nghèo 37 hộ), hỗ trợ 40 máy may công nghiệp cho các hộ nghèo ở xã Tân Lí Đông – làng nghề truyền thống bàng buông Tân Lí Đông – đến nay có hơn 08 hộ thoát nghèo 3.

__________
1. www.dost-bentre.gov.vn.

2. www.vietnam.vnanet.vn.

3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo đã dẫn.

     2.2. Thuận lợi thì chừng ấy, nhưng khó khăn của các làng nghề thì nhiều. Các làng nghề hiện nay hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cha truyền con nối, người trước chỉ người sau bằng cách cầm tay chỉ việc, phụ thuộc vào kĩ năng khéo léo của đôi tay là chính. Mức độ đầu tư máy móc thiết bị vào sản xuất còn thấp, việc áp dụng khoa học kĩ thuật rất hạn chế. Cụ thể như làng nghề chạm khắc gỗ tại Tiền Giang: khâu vẽ kiểu trên giấy vẫn được vẽ bằng tay rất mất thời gian, độ tinh xảo cũng không cao và thường chỉ sử dụng được một lần do khó bảo quản và kích cỡ các lần sử dụng cũng không đồng nhất. Trong khi đó, nếu được đưa vào xử lí bằng kĩ thuật số thì sẽ rút ngắn được thời gian, lưu trữ và phóng to thu nhỏ dễ dàng cho các lần sử dụng sau. Hậu quả của việc làm thủ công là chất lượng thành phẩm không đồng nhất, bạn hàng không trả tiền trước mà thường đợi nghiệm thu sản phẩm mới trả công. Thực trạng này đẩy các cơ sở đến chỗ thiếu vốn xoay vòng nguyên vật liệu, đầu tư máy móc, nâng cao chất lượng sản phẩm.

     Phần lớn các cơ sở sản xuất với quy mô hộ gia đình, đặt tại nhà và nằm rải rác trong khu dân cư nên việc thu gom và xử lí chất thải của làng nghề rất khó khăn, đa số các chất thải đều thải trực tiếp ra môi trường không qua xử lí, môi trường tại các làng nghề bị ô nhiễm, vấn đề xử lí môi trường chưa được triển khai triệt để (tiêu chí công nhận làng nghề theo Thông tư 116 1 không đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường). Cộng vào đó là hệ thống giao thông nội bộ của một số làng nghề vẫn chưa được quan tâm đầu tư (hầu hết đang còn là đường đất), do đó vận chuyển nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và thành phẩm chưa thuận tiện. Giao thông nông thôn chỉ mới đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển nhẹ, điện chỉ đáp ứng cho sinh hoạt. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lí môi trường cho các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn gặp nhiều khó khăn do đời sống người dân nông thôn còn nghèo, việc huy động vốn góp của dân theo tỉ lệ 6/4 khó thực hiện, đặc biệt là các công trình xử lí môi trường. Hai thực trạng trên dẫn đến hậu quả là không hấp dẫn được các nhà đầu tư rót vốn vào, làng nghề vì thế cũng bị hạn chế khả năng phát triển.

      Tư duy làm ăn manh mún, nhỏ lẻ, không liên kết chặt chẽ với nhau mà hầu như nhà nào biết nhà đó. Điều này khiến cho thương hiệu làng nghề không được xây dựng, lương nhân công không nâng cao được do áp lực cạnh tranh về giá giữa các hộ gia đình. Đơn cử như trường hợp làng nghề chạm khắc gỗ tại Tiền Giang: bình quân thu nhập của nghệ nhân chỉ khoảng 200.000đ/ngày 2, tương đương với lương của một phụ hồ, nhưng nếu nâng giá cao hơn thì chủ hàng sẽ giao đơn hàng cho hộ khác, dẫn đến mất mối khách. Ở làng nghề bàng buông Tiền Giang thì lương công nhân còn thấp hơn, chỉ ở mức 4 triệu – 4,5 triệu đồng/tháng; mặc dù hàng được hợp tác xã 3 làm xuất sang các nước châu Âu và châu Mĩ, nhưng do chủ cơ sở không trực tiếp làm được công việc xuất khẩu mà phải qua trung gian của một công ti khác.

     Trong quá trình sản xuất người lao động cũng chưa thật sự quan tâm đến việc tự bảo vệ mình, chưa trang bị bảo hộ lao động đầy đủ nên dễ xảy ra tai nạn lao động. Khi tai nạn xảy ra sẽ không có chế độ bảo hiểm y tế nào để trang trải chi phí, khiến cho cuộc sống của nghệ nhân đã chật vật lại càng thêm eo hẹp. Điều này cũng gây ra tâm lí chán nản cho nghệ nhân, họ dễ bỏ nghề để kiếm việc khác có chế độ lương cũng như bảo hiểm tốt hơn. Làng nghề vì thế ngày càng mai một do không thể níu chân được lực lượng lao động có tay nghề cao.

     Khả năng xúc tiến thương mại của làng nghề còn yếu, chưa có chiến lược phát triển sản phẩm một cách bền vững và cũng chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho sản phẩm đặc trưng của làng nghề. Các sản phẩm nón bàng buông của Tiền Giang hiện vẫn chịu cảnh chủ yếu nhận gia công cho các công ti mua đi bán lại, vì thế sản phẩm sẽ được gắn nhãn của công ti trung gian thay vì mang thương hiệu của nơi sản xuất ra nó 4. Như vậy hiển nhiên người tiêu dùng ở khắp nơi trên thế giới sẽ không thể biết đến sự tồn tại của một làng nghề nón, giỏ bàng buông Thân Cửu Nghĩa.

Như trên đã nói, hầu hết làng nghề truyền thống đều mang tính hộ gia đình, vì thế luôn tồn tại tình trạng thiếu người có kinh nghiệm quản lí sản xuất, kinh doanh giỏi. Sản phẩm làm ra không được PR tốt nên luôn chịu mức giá thiệt thòi. Một chiếc nón bàng buông xuất xưởng chỉ với giá khiêm tốn là 6.000đ, nhưng nó sẽ gấp 20 lần giá ấy khi đến tay người tiêu dùng và hiển nhiên phần lợi nhuận chênh lệch ấy sẽ rơi vào tay thương lái buôn 5.

__________
1. Thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành 18/12/2006 Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn.

2. Cơ sở chạm khắc gỗ của ông Lê Văn Hùng (Ba Nữ), xã Lương Hoà Lạc, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

3. Hợp tác xã bàng buông Thống Nhất, xã Thân Cửu Nghĩa, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

4. Xem thêm Cẩm nang xây dựng thương hiệu điểm đến du lịch, phần 2, Hội đồng Khoa học kĩ thuật – Tổng cục Du lịch, Bản tin Du lịch, Hà Nội, tháng 12/2010 (quý IV/2010).

5. Hợp tác xã bàng buông Thống Nhất, xã Thân Cửu Nghĩa, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

     2.3. Trên cơ sở thực trạng và khó khăn của làng nghề truyền thống, chính quyền các tỉnh, thành phố cần tìm ra giải pháp kịp thời để bảo tồn và phát triển các làng nghề hiện có. Mặt khác, xin có một số đề xuất:

     1) Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình Bảo tồn và Phát triển làng nghề, xây dựng thương hiệu làng nghề tiến tới hình thành làng nghề văn hoá – du lịch. Bằng chương trình này, giá trị sản phẩm sẽ được nâng lên, thương hiệu sản phẩm sẽ được quảng bá và quan hệ thương mại sẽ bớt “vòng vèo” gây thiệt hại cho cơ sở và người sản xuất.

     Ngoài ra, du lịch văn hoá – sinh thái sẽ làm tăng lợi nhuận cho người dân địa phương và làm thay đổi thái độ đối với việc bảo tồn. Cụ thể, khi sự hài lòng của du khách tăng lên, thì họ sẽ đến nhiều hơn. Kết quả là du khách chi tiền nhiều hơn, người dân trong cộng đồng địa phương được hưởng lợi nhuận lớn hơn và họ sẽ nhận ra tầm quan trọng để quản lí tốt hơn những giá trị địa phương dựa trên mối liên hệ với tiền thu được. Điều đó sẽ làm du khách càng hài lòng hơn 1.

     2) Hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề ứng dụng khoa học kĩ thuật, cải tiến thiết bị từ nguồn kinh phí khuyến công của tỉnh. Đổi mới công nghệ, cơ khí hoá, hợp lí hoá dây chuyền sản xuất để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Hỗ trợ cải tiến mẫu mã bao bì, tăng cường công tác tiếp thị, quảng bá sản phẩm. Trong thời đại hội nhập kinh tế toàn cầu, nếu không hạ giá thành sản phẩm và làm cho sản phẩm ngày càng tinh xảo hơn bằng sự trợ giúp của khoa học – kĩ thuật thì các ngành nghề truyền thống khó có điều kiện phát triển, đứng vững.

     3) Bổ sung điều kiện về bảo vệ môi trường làng nghề vào tiêu chí công nhận làng nghề; Chỉ đạo để các địa phương thực hiện thống nhất việc xây dựng đề án phát triển làng nghề lồng ghép trong đề án xây dựng nông thôn mới. Nhà nước hỗ trợ 100% vốn đầu tư đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lí môi trường làng nghề. Tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực phát triển các làng nghề trọng điểm thuộc thế mạnh của tỉnh; phát triển hạ tầng phục vụ cho làng nghề đi đôi với việc bảo vệ môi trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

     4) Ngoài ra, cần hỗ trợ chi phí cho làng nghề xây dựng, xác lập quyền và phát triển chỉ dẫn địa lí, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận. Đồng thời, tăng thu nhập, nâng cao ý thức và trang bị đồ phòng hộ lao động, hướng dẫn các cơ sở tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đầy đủ cho người lao động. Giải quyết nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là ở các vùng nông thôn; góp phần phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ, góp phần xây dựng nông thôn mới.

     5) Cần quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu chuyên canh để đảm bảo nguyên liệu đầu vào. Đồng thời, có giải pháp mô hình quản lí nhà nước về làng nghề: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thống nhất quản lí nhà nước về làng nghề theo Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, Sở Công thương quản lí chuyên ngành; hỗ trợ hình thành Ban quản lí các làng nghề. Phân bổ 01 cán bộ cho cấp xã chuyên phụ trách ngành nghề nông thôn, làng nghề để triển khai các quy định của pháp luật về ngành nghề nông thôn, làng nghề, bảo vệ môi trường làng nghề,… cũng như thực hiện công tác quản lí nhà nước về lĩnh vực này.

6) Công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho làng nghề, thành lập các hợp tác xã có quy mô gọn, nhẹ, năng động trong các làng nghề để làm đầu mối tổ chức quản lí làng nghề. Tổ chức các chuyến giao lưu tham quan giữa các làng nghề để học tập kinh nghiệm trong và ngoài địa phương cũng là hoạt động cần được xem trọng.

__________
1. Du lịch sinh thái và bảo tồn môi trường ĐBSCL, Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch An Giang – Tiền Giang, 2009, tr. 48.

3. Làng nghề ở Việt Nam, các tỉnh Tây Nam Bộ nói riêng, có được những thuận lợi cho sự duy trì và phát triển lâu dài. Tuy nhiên, tất cả không thể tiến lên sản xuất lớn và hội nhập kinh tế thị trường, nhất là thị trường thế giới, nếu không có giải pháp đồng bộ cho những vấn đề đòi hỏi cấp bách hiện nay như: nguồn vốn, cơ sở hạ tầng, kĩ thuật trang thiết bị, đào tạo tay nghề và tính hợp lí của nguyên liệu đầu vào cũng như thành phẩm đầu ra. Trên hết là những chủ trương, chính sách thiết thực của Nhà nước trong việc hỗ trợ cho cơ sở sản xuất và người lao động ngành nghề truyền thống. Một điểm không kém phần quan trọng nữa là cần khắc phục điểm yếu của Việt Nam về chính trị, kinh tế và môi trường kinh doanh, đó là phải mạnh tay với “vấn đề tham nhũng” vì “tham nhũng vẫn là một vấn nạn của đất nước” 1.

___________
1. Theo Báo cáo của Business Monitor International về du lịch Việt Nam (quý II/2010, dự báo đến 2014), Hội đồng khoa học kĩ thuật – Tổng cục Du lịch, Bản tin Du lịch, Hà Nội, năm 2010 (quý II/2010), tr. 9, 10, 11.

HOÀNG THỊ ÁNH TUYẾT 1

__________
1. Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam.

Ảnh minh họa (Ban tu thư sưu tầm): Một hộ làm bánh tại làng nghề bánh tráng Thuận Hưng tại Cần Thơ – Nguồn: https://bazantravel.com