Mấy nhận xét về Nho giáo thời Nguyễn

Tác giả bài viết:Phó Giáo sư CHƯƠNG THÂU
(Viện Sử học)

1. Nho giáo ở thế kỷ XIX

     Sau khi đánh đổ nhà Tây Sơn, Triều đình phong kiến nhà Nguyễn xây dựng một chế độ quân chủ tập quyền trên phạm vi cả nước. Để xiết chặt hơn bộ máy thống trị của mình, từ năm 1811, Gia Long cho phỏng theo luật lệ của nhà Mãn Thanh để soạn ra một bộ luật mới gọi là Hoàng triều luật lệ.

     Về mặt văn hóa, do ảnh hưởng của chữ Nôm được trọng dụng dưới triều Tây Sơn, thời Gia Long, triều đình vẫn phải tham dụng chữ Nôm trong văn thư hành chính. Nhưng đến đời Minh Mạng, nhà vua định ra rằng nhất thiết trong việc thi cử và trong văn thư hành chính chỉ được phép dùng một thứ chữ là chữ Hán.

     Việc học chữ Hán được đưa lên địa vị độc tôn trong văn học, làm cho văn học trở thành nghèo nàn và khuôn sáo. Lối học cử nghiệp lại càng xa rời thực tế và chuộng hư văn. Chính Minh Mạng đã phải nói:

     “Văn chương cử nghiệp ngày nay câu nệ sáo cũ, người ta khen ngợi lẫn nhau để lập riêng bè phái, nhân phẩm lấy đó làm cao thấp, khoa trường lấy đó mà chọn lọc. Sự học như thế thì không lạ gì mà nhân tài ngày càng thêm kém” (Đại Nam thực lục).

     Trước cơn phong ba bão táp của những cuộc khởi nghĩa nông dân ngày một rộng khắp, Minh Mạng càng xiết chặt hơn chính sách chuyên chế và tiếp tục đề cao Nho giáo hơn một mức, muốn gửi gắm vận mệnh triều đình nhà Nguyễn vào Nho giáo.

     Lúc bấy giờ, Thiên Chúa giáo đã du nhập nước ta và đang có cơ truyền lan mau chóng, uy hiếp đến sự sinh tồn của hệ tư tưởng Nho giáo chính thống. Minh Mạng vội ban hành mười huấn dụ gọi là “Thập điều” để khuyên dân bỏ tà (tức là Thiên Chúa giáo và thôi đừng khởi nghĩa nữa) theo chính (tức là theo Nho giáo và theo triều đình).

     Thập điều gồm những mục:

1. Đôn nhân luân (đề cao nhân nghĩa, luân thường)

2. Chính tâm thuật (giữ lương tâm)

3. Vụ bản nghiệp (chăm nghề nghiệp)

4. Thượng tiết kiệm (chuộng tiết kiệm)

5. Hậu phong tục (trọng phong tục)

6. Huấn tử đệ (dạy bảo con em)

7. Sùng chính học (tôn sùng Nho học)

8. Giới dâm thắc (răn việc gian dâm)

9. Thận pháp thủ (thận trọng giữ gìn phép vua)

10. Quảng thiện hạnh (làm nhiều việc thiện)

     Ta thấy rằng, nhân luân tức là luân thường, cương thường được nêu lên đầu và bao trùm tất cả.

     Nho giáo đến thời Tự Đức cũng không sáng sủa gì hơn.

     Vừa là vua, vừa là học giả, Tự Đức muốn làm chủ tể cả tư tưởng và học thuật. Thi Hội thi Đình là những cuộc thi đua giữa những phần tử trí thức, những học giả ưu tú nhất trong nước. Những “Cống sĩ” đã qua được bốn cửa ải ngoài thi Hội, thì được vào điện thí, hay đình thí, nghĩa là được vào trong điện vua, trong sân (đình) vua làm đối sách, tức là một bản luận án. Tự Đức tự tay thảo ra chế sách (luận đề) và tự tay phê điểm các bài đối sách. Đại khái những vấn đề đặt ra là thuộc về lý luận kinh điển của Nho giáo hay thuộc về kế dân sinh đương thời. Có nhiều khi Tự Đức còn tuyên triệu những người đã trúng tuyển (Bảng nhãn, Thám hoa…) vào nhà Duyệt thị để khảo sát học lực và kiến thức của họ một lần nữa bằng những bài đối sách đặc biệt. Tự Đức là thường trước tác những luận văn thuộc về những vấn đề lý luận kinh điển, như vấn đề chữ “nhân”, “trung thứ”, “Thuần thần”, “học giả trị sinh”… và chỉ định những Nho thần ở viện Tập hiền hay ở ngoài làm luận văn về những vấn đề ấy.

     Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam dưới triều Tự Đức cũng như các triều Thiệu Trị, Minh Mạng, Gia Long trước đó và các triều Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân sau này, chúng ta thấy giai cấp thống trị phong kiến nhà Nguyễn vẫn một mực khư khư cố bám lấy những giáo điều, những câu những chữ của Khổng Mạnh, của Hán Nho, của Tống Nho để làm phương châm trị nước.

     Tự bịt mắt bưng tai trước sự phát triển của nông nghiệp thế giới và những thành tựu mới của khoa học, với tư tưởng bảo thủ của Nho giáo, chúng lại đi vào mê tín, luôn luôn cầu trời, mong sự ban ơn, tác phúc của trời. Không những chúng mê tín thần linh, tin vào số phận may rủi, chúng còn gieo rắc sự mê tín ấy trong nhân dân. Chính Thiệu Trị đã cùng với triều thần viết sách bói toán để phổ biến trong toàn quốc.

     Tưởng cũng nên ghi nhân thêm ở đây một sự cố tình nhắm mắt trước sự tình hình thực tế là: Lúc bấy giờ Thiên Chúa giáo đã du nhập nước ta và đối sách của Nhà nước phong kiến trước tình hình mới này như thế nào?

     Chủ nghĩa tư bản đã sớm phát sinh ở Tây Âu và mới xuất hiện một cách phảng phất ở Trung Quốc và nó đang tìm đường phát triển sang Việt Nam tìm “thực dân địa” và chỗ dựa tinh thần của nó là Thiên Chúa giáo cũng tìm mọi cách len lỏi vào đất nước ta. Trước tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn đã không có một chính sách khả dĩ gọi là “thức thời” nào, trái lại đã đưa ra chính sách “bế quan tỏa công” và “cấm đạo” rất khắc nghiệt nhưng cũng hết sức mù quáng. Đời Minh Mạng, Thiệu Trị, sự cấm đạo trở thành quan trọng. Thậm chí trong các kỳ thi Hội thi Đình đều có đặt vấn đề tả đạo. Nhưng đọc những bài đối sách của các cống sĩ, thì chúng ta thấy tri thức của các nhà Nho đời ấy về Thiên Chúa giáo sơ sài quá mức.

     Trong bài đối sách của Thám hoa Phan Dưỡng Hiệu (Khoa Đinh Mùi, Thiệu Trị 7) chúng ta còn có thể đọc thấy mấy câu như sau về Thiên Chúa giáo: “… Đến cận đại thì tà thuyết Da Tô phát sinh ở các nước Tây dương. Giáo nghĩa rất là thiển cận, đáng lẽ không mê hoặc được lòng dân, chỉ vì từ lúc nhà Lê đã suy, đến đời Ngụy Tây (tức Tây Sơn), sự dạy dỗ và sự cảm hóa của bề trên không được đôn đốc, cho nên những chuyện Thiên đường, nước thánh, chữ thập, Nhi nhu (tức Jésus) mới được truyền rộng ra…”.

     Bài đối sách của Phạm Thanh năm Tự Đức thứ tư (1851) có nói về tả đạo rằng: “… Dân tả đạo cũng đã biết hồi tâm, do sự cảm hóa của nhà vua, và cũng đã có người bước qua giá chữ Thập. Chỉ vì lớp dân hạ ngu, một khi đã mê hoặc cái đạo dị đoan, thì những chuyện Thiên đường, nước thánh, tin chắc mà không còn ngờ… sự giảng đạo, sách đạo, kinh đạo làm cho họ mê hoặc quá lắm rồi, do đó mà không mấy người thoát khỏi được cái tập quán tích lũy đã lâu ngày”.

     Ta thấy rằng nhà Nho lúc bấy giờ đã quay lưng với Thiên Chúa giáo, cũng có nghĩa là quay lưng với một hệ tư tưởng đang dần dần chiếm lĩnh một số trận địa trong thực tế. Các nhà Nho vẫn cứ nhắm mắt coi khinh, coi rẻ tư tưởng của Thiên Chúa giáo, cho nó là không có gì cả. Tuy vậy, tựu trung chỉ có Phương Đình Nguyễn Văn Siêu là người đã lưu tâm khảo sát Thiên Chúa giáo một cách tương đối nghiêm chỉnh và thận trọng. Ông không những là một nhà văn (văn như Siêu Quát vô Tiền Hán) nổi tiếng, mà còn là một học giả rất uyên bác. Hai tuyển tập của Phương Đình là Văn loại Tùy bút gồm nhiều trước tác về Triết học (Độc Dịch thuyết, Chư kinh khảo ước, Tư thư trích giảng), về Sử học (Chư sử khảo ước), về Địa lý học (Địa dư chí). Tập khảo luận về Thiên Chúa giáo nhan đề là Chư gia Thiên Chúa giáo bị khảo, Nguyễn Văn Siêu đã sưu tập những tài liệu Trung Quốc nói về sự du nhập Thiên Chúa giáo, ở đời nhà Minh, Hiên giáo hay Cảnh giáo ở đời Đường (Hiên giáo hay Cảnh giáo Nestoriens là một biệt phái Đông phương của Thiên Chúa giáo), về hành trạng của Da Tô, về thuyết cứu thế thập tự, thuyết thục tội, thuyết Thiên đường… Trong quyển sách này, Nguyễn Văn Siêu có xét về phương pháp và chế độ giáo dục của Thiên Chúa giáo, nhưng cuối cùng ông lại đưa ra nhận định “như thế thì tình hình không khác gì trình tự giáo dục của Nho gia cả” (Tự dữ Nho học thứ tự vô dị) (!?). Ông còn nói thêm:

     “Cái thuyết thiên đường địa ngục của họ chỉ là bỏ đi một nửa cái giáo lý của nhà Phật mà lại nói theo cái thuyết nhân quả nghiệp duyên để hiệu triệu ngu phu ngu phụ. Tuy nhiên họ lại cực lực bài xích Phật giáo, cho là hoang đường, quái đản và họ làm ra vẻ gần gũi với Thái cực và Thượng đế của nhà Nho chúng ta”.

     Ở chỗ khác, Phương Đình nói rằng:

     “Kính nay Hoàng thượng thẳng tay ức chế Phật giáo, ngăn đứt Dương giáo (tức Thiên Chúa giáo) vì cái thuyết h- vô của họ sinh tệ mà thành ra cô tức (nhu nhược), cái thuật kỹ xảo của họ sinh tệ mà thành ra cơ trí!”.

     Trên đây là một vài tư liệu nói lên trình độ hiểu biết của một số nhà Nho tiêu biểu của triều Nguyễn đối trước một trào lưu tư tưởng mới – tức Thiên Chúa giáo – du nhập vào nước ta hồi đầu thế kỷ XIX. Nhưng cũng chưa thể hiện hết cái mức độ bảo thủ của các nhà Nho, vốn được mệnh danh là “rường cột của nước nhà” thời đó đối với nền khoa học kỹ thuật Tây phương mà họ có dịp tiếp xúc. Những ý kiến nhận định đánh giá của số nhà Nho này mới thật là kỳ quái.

     Chẳng hạn đời Minh Mạng, năm 1831, Lý Văn Phức đi phái bộ sang Minh – Ca (Mangalay), một trấn thực dân của nước Anh. Lý quan sát chế độ văn vật, học thuật, phong tục của người Anh một cách nghiêm cẩn. Những sự vật như tàu chạy bằng hơi nước, máy dẫn thủy, kính thiên văn, cột thu lôi… đều là những cái có sức kích thích và hấp dẫn đối với Lý. Về cột thu lôi, Lý Văn Phức nói:

       “Thường thấy dọc đường và trên nóc nhà của họ có dựng một cái roi bằng sắt, chu vi một tấc, cao chừng vài mươi thước. Hỏi thì nói rằng đó là một thứ sắt đã chế luyện theo phép, dùng để thu hút sấm sét. Xứ này nhiều gió và sấm. Mỗi khi có sét thì nhà nào có roi sắt này sét sẽ bị hút vào đó mà mắc chặt không nổ ra được, do đó tránh được hại. Hỏi kỹ về cái phép ấy, thì không ai chịu chỉ rõ mà họ chỉ nói rằng cây sắt này là chế tạo từ bên tổ quốc của họ mà đem sang. Lại đêm hỏi người Đường (người Trung Quốc), thì họ nói rằng thứ sắt ấy được luyện bằng từ thạch, tức là dựa trên cái lý “từ thạch dẫn châm”. Việc này tuy hoang đường nhưng cũng tỏ rõ mánh khóe của bọn Phiên quỷ (chỉ người phương Tây).

     (Trích Tây hành kiến văn kỷ lược)

     Tuy là một nhà Nho uyên bác, Lý đã được người đối thoại của mình giải thích cho về công hiệu của cột thu lôi bằng nguyên lý “đồng loại tương đồng” của Hán nho (trong thu lôi có từ thạch cho nên nó hút được lưỡi sét cũng bằng đá) nhưng Lý vẫn cho đó là hoang đường, vì Lý không tin rằng sét có lưỡi bằng đá (đó chỉ là một truyền thuyết vọng ảo trong dân gian), do đó không thể viện nguyên lý “đồng loại tương đồng” để thuyết minh về tinh năng và tác dụng của câu chuyện hoang đường, không có tính hợp lý. Nhưng làm sao cắt nghĩa được công dụng thực tế của nó! Lý cho rằng đó chỉ là một cái mánh khóe, nghĩa là đó chỉ là một thứ phương kỳ, phương thuật, kỳ phương dị thuật, như bọn phương sĩ đời Chiến Quốc, đời nhà Tấn, nhà Hán, hay vận dụng, nó không có giá trị học thuật (khoa học).

     Năm 1875, trong bài Chế sách khoa phúc hạch của các tân khoa Bảng nhãn, Thám hoa…, Tự Đức hỏi về máy “toàn cơ ngọc hành” của vua Thuấn, về lịch pháp của Hy Hòa, về học thuyết của các nhà vũ trụ học Trung Quốc, sau cùng hỏi đến thuyết địa cầu của phương Tây và những vấn đề vật lý, hóa học, kỹ thuật.

     Về Thuyết địa cầu, Tự Đức hỏi rằng:

     “Cái thuyết địa cầu của họ có phải là độc sáng không và có thực nghiệm chắc chắn không? Trời vốn chỉ là khí chứa lại mà thành, làm sao mà biết được cái độ số của nó… sự toàn chuyển tả hữu của nó?…”.

     Về các vấn đề vật lý học… Tự Đức nói:

     “Cận đại nhiều người suy tôn phương pháp Thái Tây, có phải là vì có kiến thức chân xác, vượt lên trên cổ nhân, hay cũng như những người nói theo, về hùa mà thôi? Mà theo cách lập thuyết của họ (phương Tây) thì có ngũ hành tương sinh tương khắc… như thế thì cái học của họ đã trái lý và bất hợp với cổ nhân rồi còn lấy gì mà suy tôn họ nữa?…”.

     Đại khái, đối với những ứng dụng khoa học kỹ thuật (máy hơi nước, dẫn điện, thu lôi…), các nhà Nho mà đứng đâu là Tự Đức đều tỏ thái độ hoài nghi, cho là không có giá trị gì. Tự Đức cho rằng tất cả đều là quái gở – “ban ban quái dị” – chẳng qua vì người Tây dương không xuất phát từ nguyên lý cơ bản chi phối mọi hiện tượng tự nhiên là “ngũ hành tương sinh tương khắc”. Các nhà Nho bấy giờ còn cho khoa học kỹ thuật phương Tây là “cơ trí, cơ xảo”. Nguyễn Văn Siêu gán cho văn minh phương Tây là “dâm xảo”. Còn Tự Đức thì “nhật vận xảo trí”: ngày ngày vận dụng xảo trí và “xảo đoạt tạo hóa” (trí xảo đoạt cả Tạo hóa).

     Tóm lại, do tư tưởng bảo thủ của Nho giáo ràng buộc, các nhà Nho đã nhắm mắt trước thực tế mới của lịch sử, một thực tế ngày càng lồ lộ tiến đến và ngày một ngày hai sẽ đánh đổ cả cái nền thống trị của phong kiến bản địa, để thay thế vào đấy một tai ương nặng nề cho cả dân tộc. Đó là ách thống trị của bè lũ thực dân cướp nước. Đến khi đó giai cấp phong kiến mà đứng đầu là triều đình nhà Nguyễn bán nước, sẽ cũng lại làm nô lệ tay sai cho bọn thực dân cướp nước. Thực tế đau xót đó càng đến dần cả sau lưng lẫn trước mặt giai cấp thống trị. Và đến giữa thế kỷ XIX đã trở thành một hiện thực phũ phàng cho đất nước ta!

     Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng chính thức xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn đã có thái độ bạc nhược, đầu hàng, nhưng lại luôn luôn viện những lời lẽ của Nho giáo để bào chữa cho những hành động bán nước của chúng. Sau khi dâng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho giặc Pháp (1862) chúng lại dâng nốt ba tỉnh miền Tây (1867) nữa. Thế mà chúng vẫn lừa bịp nhân dân rằng chúng nêu cao lá cờ “nhân nghĩa”, giữ tình hòa hiếu với nước Pháp để giặc phải “cảm phục…” để đến nỗi dần dần bọn cướp nước thôn tính gọn nước ta vào năm 1883! Trước tình hình đó, cố nhiên nhân dân ta không bao giờ chịu khuất phục, liên tiếp nổi lên chống giặc, cũng từng nhiều phen làm cho giặc phải khốn đốn. Lịch sử dân tộc giai đoạn này đã dành những trang trân trọng để ghi lại kỳ tích oanh liệt của nhân dân ta chống Pháp trong ngót một thế kỷ, kỳ cho đến ngày độc lập (1945). Dĩ nhiên trong những chiến công hiển hách kháng Pháp ấy, tuy lúc này lúc khác, có cả những người vốn xuất thân là Nho sĩ góp phần, những bản thân Nho giáo với tư cách là một hệ tư tưởng thống trị của cả thời đại thì chẳng những không góp phần gì, mà ngược lại, chính vì do hệ tư tưởng Nho giáo ràng buộc, do cái lạc hậu, cái bảo thủ của nó đã chi phối không ít tư tưởng đường lối chiến lược và sách lược của một số nhà Nho đi với nhân dân kháng chiến, làm cho họ cuối cùng cũng phải thất bại.

     Trước tình hình mới của xã hội ta từ nửa cuối thế kỷ XIX, hàng ngũ của tầng lớp Nho sĩ đã có sự phân hóa sâu sắc. Trước nạn nước bị xâm lăng, đã có ít ra ba loại người có ba xu hướng chính trị khác nhau, do đó dẫn đến ba phương hướng hành động khác nhau.

     – Thứ nhất là loại nhà Nho bạc nhược, hèn nhát run sợ trước sức mạnh vật chất, trước tàu đồng súng lớn của chủ nghĩa tư bản thực dân, đi đến thủ tiêu đấu tranh mà đầu hàng giặc, sau đó ôm chân giặc cướp nước và trở thành tay sai đắc lực cho chính quyền thống trị thực dân và phong kiến. Đó là bọn Tôn Thọ Tường, Trần Bá Lộc… Tôn Thọ Tường đã từng trơ trẽn tự ví mình như Tôn Phu nhân “Thà mất lòng anh, được bụng chồng”, có nghĩa là thà phản bội Tổ quốc, nhân dân mà được lòng thực dân xâm lược Pháp. Hoặc như Hoàng Cao Khải đã trâng tráo nhận giặc là “bạn quý” và trong cuộc đời làm tay sai giặc, đàn áp khởi nghĩa của nhân dân, đã ra sức tô vẽ cho cái gọi là “Tây Nam đắc bằng” (Tây Nam là bạn tốt của nhau).

     – Thứ hai là loại nhà Nho, tuy có tinh thần dân tộc, có lòng ưu thời mẫn thế, cũng muốn trong danh phận của mình tham gia với nhân dân một cái gì trong lúc “quốc gia hữu sự”, nhưng họ lại cảm thấy mình đã trở nên bất lực, thôi thì đành lui về giữ tiết, không chịu hợp tác với giặc, yên phận vui thú điền viên sớm chiều dạy vài đứa trẻ nghêu ngao nơi xóm làng heo hút… cũng giống như cuộc đời vốn đã heo hút của một Nho gia. Loại nhà Nho này gồm những ông thầy học, ông thầy thuốc bắc, thậm chí là ông thầy phong thủy hay ông thầy bói Dịch. Họ sống những ngày tàn cuộc và như tuồng muốn nhắm mắt làm ngơ tất cả sự đời, tuy họ vẫn nuối tiếc về một thời đại hoàng kim Nghiêu Thuấn xa xưa. Đó là những ông cống, ông nghè dám treo ấn từ quan, lui về giữ “đạo thánh hiền” mà người danh vọng tiêu biểu là Nguyễn Khuyến ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

     – Thứ ba là loại nhà Nho tích cực, họ thuộc những người đứng hẳn về phía nhân dân, hướng về chủ nghĩa anh hùng dân tộc, nối tiếp truyền thống của cha ông từ thời dựng nước Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, noi theo gương của Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm… Loại Nho sĩ thuộc xu hướng tích cực này, cuối thế kỷ XIX có thể lấy Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thuyết hay ở trong Nam là Nguyễn Hữu Huân, Bùi Hữu Nghĩa; ở ngoài Bắc là Phạm Văn Nghị, Nguyễn Quang Bích… Truyền thống này trong lịch sử gọi là phong trào chủ chiến của Văn Thân, Cần vương ở thế kỷ XIX và phong trào bạo động của Phan Bội Châu đầu thế kỷ XIX. Nó đối lập với khuynh hướng chủ hòa hoặc cải cách cùng phát sinh đồng thời trong từng giai đoạn lịch sử ở cuối thế kỷ XIX cũng như đầu thế kỷ XX.

     Về những khuynh hướng chủ chiến, chủ hòa, cải cách… của các nhà Nho ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX này sẽ là một chuyên đề nghiên cứu lý thú đối với các nhà nghiên cứu mà ở đây chúng tôi không dừng lại lâu.

II. Nho giáo đầu thế kỷ XX và tàn dư của nó 

     Nho giáo Việt nam từ sau ngày thực dân Pháp đặt xong nền thống trị vào những năm cuối cùng của thế kỷ XIX trở đi tuy về hình thức được thể hiện trong bộ máy thống trị quan liêu, trong những thể chế pháp luật và trong khoa cử cũng như trong quy tắc, nếp sống xã hội vẫn còn, thậm chí những gì mà chính quyền thực dân thấy còn có lợi cho việc củng cố nền thống trị của chúng thì vẫn được duy trì, nhưng từ đây Nho giáo với tất cả lễ giáo của nó đã có phần biến chất, nó được bổ sung bằng ảnh hưởng thẩm thấu của văn hóa phương Tây và thực dân hóa. Nó cũng giống như hình ảnh một ông vua quan Nam triều đội mũ cánh chuồn (đại diện cho Nho giáo) nép mình hoặc quỳ gối bên cạnh một Toàn quyền, Khâm sứ, Thống sứ mũi lõ tóc quăn mặc kiểu Tây, tay cầm cái batoong như sẵn sàng gõ vào các vị quan Nam triều bảo hãy cố mà làm cho được việc hơn!

     Nhà nước Bảo hộ và vua quan Nam triều muốn tận dụng những gì có thể còn có thể sử dụng được ở trong Nho giáo để củng cố quyền lợi và địa vị của đế quốc xâm lược và của giai cấp thống trị, vì vậy cứ ba năm lại cho tổ chức các kỳ thi Hương, thi Hội để tuyển lựa thêm quan chức. Vì đây cũng là một nguồn bổ sung cán bộ cho chính quyền thuộc địa, bên cạnh nguồn đào tạo của hệ thống Tây học của các trường Hậu bổ, trường Thông ngôn…

     Thực trạng Nho giáo Việt Nam trong những ngày tàn của nó đã được phản ánh rất sinh động và sâu sắc trong tầng lớp Nho sĩ cuối mùa. Chả thế mà Tú Xương đã phải thốt ra:

Nào có ra gì cái chữ nho,
Ông nghè ông cống cũng nằm co!

     Và đã đến lúc phải kết thúc màn bi hài kịch Nho giáo này. Chính quyền thực dân đã tỏ ra kịp thời khi cho kéo tấm màn đen để che phủ cả cái quá khứ nặng nề của một nền học vấn, khi viên Toàn quyền Merlin vừa được bổ nhiệm cai trị Đông Dương trong tay đã cầm sẵn chính sách văn hóa giáo dục cho xứ Đông Dương theo “chương trình bình diện” (plan horizontal) – nhưng là một mặt phẳng thấp lè tè!

     Năm 1919 là năm chính thức kết thúc các kỳ thi Hán học để lấy học vị Tiến sĩ ở nước ta. Vào năm đó, chính quyền Bảo hộ và Nam triều đã lấy đỗ được mấy ông tiến sĩ Hán học Tây hóa cuối cùng. Văn học dân gian đã ghi lại khá sinh động về hình ảnh các ông nghè khoa chót ấy:


“Lê văn Kỷ giỏi phăng-xe (Francais)
Nguyễn Phong Di ở Nhật về!

     Lê Văn Kỷ tức là ông đốc tờ Y khoa ( thực ra Médecine Indochine) vì muốn có cái học vị Tiến sĩ (ông Nghè) đã ra ứng thí kỳ thi này. Còn Nguyễn Phong Di tức là Nguyễn Thái Bạt vốn là một phần tử của phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo, y đã hoạt động ở Nhật Bản nhiều năm, sau “bất tiết”, trở thành tay sai của thực dân Pháp, được Pháp cho trở về dự kỳ thi Hội cuối cùng này và chúng đã lấy Nguyễn Phong Di đỗ đầu, gọi là Đình nguyên, sau cho làm thượng thư Bộ Công trong triều đình Huế.

     Sớm hơn số Nho học Tây (thuộc địa) hóa này và trên tư tưởng gần như đối lập với tầng lớp này, còn có một số nhà Nho thức thời rất được nhân dân ta quý mến và lịch sử dân tộc ghi công. Đó là số Nho sĩ đã trở thành những chí sĩ yêu nước và cách mạng đã hoạt động tích cực cho phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX mà Phan Bội Châu là nhân vật tiêu biểu, đồng thời là trung tâm thu hút những người có tinh thần dân tộc, có chí khí yêu nước diệt thù trong thời gian đầu thế kỷ XX này.

     Không giống như những Nho sĩ từng than vãn “ông nghè ông cống cũng nằm co” và đành chấp nhận sự bế tắc về tư tưởng, về con đường tiến thủ trước thực tế mới của lịch sử, Phan Bội Châu cũng là một Nho sĩ và là một danh sĩ có tiếng tăm hẳn hoi, từ lâu đã tỏ ra không chịu nổi cách sống và suy nghĩ của lớp hủ nho, ông tỏ ra “khinh bỉ danh vọng thế tục” và đã từng ngâm ngợi câu thơ:

“Mỗi phạn bất vong, duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”
(Ngày ngày những mong ghi sử sách,
Lập thân hèn nhất ấy văn chương).

     Nhưng rồi để lập thân, Phan Bội Châu cũng không thoát khỏi sự ràng buộc của “thế tục” lúc bấy giờ.

     – Điều này càng chứng tỏ di hại của Nho giáo đã ảnh hưởng sâu xa như thế đấy! – Ông cũng phải “cố sức theo đuổi lối văn chương theo thời, mong sao có tiếng tăm với đời để làm chỗ bay nhảy mai sau”. Và đến sau khi đỗ giải nguyên (1900), đã có “cái hư danh để che mắt đời” thì ông công khai, và cho đến khi đó thì vị trí của ông trong xã hội mới được thừa nhận:

“Bất như ý thường bát cửu sự, sâu sinh liêm ngoại Tây phong”
(Không như ý thường tám chín việc, ngoài rèm căm tức ngọn gió Tây (thực dân Pháp)

     Phan Bội Châu và một tầng lớp Nho sĩ, trí thức, thanh niên yêu nước xông lên làm nhiệm vụ lịch sử mà nhân dân Tổ quốc giao phó cho:

Sinh vi nam tử yếu hi kỳ.
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di?
(Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời,
Lẽ nào để cho trời đất muốn xoay vần tới đâu thì tới!)

     Các bậc nhân dân chí sĩ này ra đi tìm đường cứu nước, theo gương của Minh Trị duy tân, của các nước Tây Âu, Đông Á văn minh tiến bộ, đã từng đánh đuổi được bọn ngoại tộc xâm lăng. Và như thế dứt khoát với mình, với tư tưởng “hủ nho” đã từng giằng chân giữ bước bao nhiêu người, Phan Bội Châu rũ áo ra đi xuất dương tìm đường cứu nước, và cương quyết bỏ lại đằng sau cả một gia tài “tinh thần” đã từng cản trở bước đi của mình ít ra là hơn chục năm rồi.

     Năm 1905 ra đi, số anh em Đông Du của Duy Tân Hội do Phan Bội Châu lãnh đạo, đã dần thu lượm được những thành tích mới trên con đường cứu nước. Do tiếp xúc nhiều với các trào lưu tư sản phương Tây, Nhật bản, với sách báo Tân Thư và nhất là với thực tế của nhà nước tư sản Nhật Bản, với các nhà dân chủ tư sản Trung Quốc như Lương Khải Siêu, các nhà Đông Du (phần lớn vốn xuất thân Nho học) đã như “sáng mắt sáng lòng”. Trong các văn kiện (thơ văn yêu nước) từ nước ngoài gửi về tuyên truyền yêu nước, vận động cách mạng, các cương lĩnh hành động theo tư tưởng dân chủ tư sản đã hình thành (nhất là trong tác phẩm Hải ngoại huyết thư, trong tác phẩm Tân Việt Nam, Phan Bội Châu đã thể hiện khá hoàn chỉnh về một thể chế tổ chức nhà nước, pháp luật, dân quyền, dân chủ, nam nữ bình đẳng, động lực cách mạng…).

     Trên đà tiến triển về tư tưởng ấy (bỏ xa dần tư tưởng Nho giáo), đến năm 1912, Phan Bội Châu và các nhà yêu nước lưu vong đã thành lập ra Việt nam Quang Phục Hội, mà cương lĩnh hành động là:

     “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam thành lập nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam”.

     Chúng ta chú ý tư tưởng “dân chủ cộng hòa” này xuất hiện ở các cụ nhà Nho, rõ ràng là một bước tiến khổng lồ trong tư tưởng và trong đời sống chính trị và các vị lão Nho này. Đáng mừng nữa là đến ngay như Nguyễn Thượng Hiền, một vị nguyên là xuất thân Hoàng giáp, có tài thơ văn trác tuyệt, được Phan Bội Châu mệnh danh cho là “người tiền bối già”, trước “tuy không có tư tưởng dân chủ nhưng cũng miễn cưỡng theo; kết quả là chủ nghĩa dân chủ được đại đa số tán thành” (Phan Bội Châu niên biểu).

     Bộ phận chí sĩ vốn là Nho sĩ hoặc phần lớn xuất thân từ Nho học phong kiến từ đấy (1912) đã hoạt động với phương hướng tư tưởng dân chủ ấy. Tuy mức độ ảnh hưởng tư tưởng dân chủ nông sâu có khác nhau trong từng người cụ thể, nhưng lịch sử Nho giáo Việt nam ở giai đoạn này không thể không ghi là “từ năm 1912 với việc thành lập Việt Nam Quang Phục Hội, phong trào giải phóng dân tộc nước ta về mặt phương hướng tư tưởng đã đánh dấu một bước mới: tư tưởng quân chủ, phong kiến, Nho giáo đã bị đánh lùi một bước”.

     Từ đó “nếu như đường đời bằng phẳng cả”, thì “anh hùng hào kiệt dễ hơn ai?”.

Giả sử tiền đồ tận di thản,
Anh hùng hào kiệt dã dung thường.
(Thơ Phan Bội Châu an ủi Mai Lão Bạng)

     Nhưng rồi vì đường đời không bằng phẳng nên cụ Phan Bội Châu đã bị bắt giam, các đồng chí của cụ lần lượt bị hãm hại, phong trào cách mạng dân tộc dân chủ thế kỷ liên tiếp bị thất bại. Cuối cùng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp đem về bến Ngự (Huế) an trí cho đến cuối đời, từ 1925 – 1940. Bị cách ly khỏi cuộc sống, khỏi mọi phong trào đấu tranh sôi sục của nhân dân ta mà giờ đây ngọn cờ lãnh đạo cách mạng đã thuộc về Đảng của giai cấp tiền phong, từ cuối những năm 20 (sau khi cụ bị bắt) rồi. Cụ đã bị thực tế đấu tranh của giai đoạn mới của cách mạng vượt qua. Cụ đã bị thời đại vượt qua!

     Tâm sự của cụ Phan Bội Châu lúc này đây là tâm sự của một vị lão thành yêu nước của thế hệ trước, cũng:

“Những anh em đầy bốn biển”
“Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian”!

     Trong ba gian nhà lá ở dốc An Cựu, với một con đò tha thẩn chèo lái nơi bến Ngự, cụ Phan như chỉ ngồi mà đối diện với tâm hồn và đối thoại với lòng mình. Nào cụ có muốn sống cuộc đời tẻ nhạt như thế này đâu, cuộc đời mà như chính Cụ đã nói “vẽ rắn thêm chân” này đâu.

     Ôn lại cuộc đời, viết lại tập tự truyện, kể cho hậu thế cuộc đời “trăm thất bại mà không một thành công của mình”. Cụ thật khá khiêm tốn.

     Chủ nghĩa Mác – Lênin cụ chưa hiểu biết nhiều, chủ nghĩa Tam dân, chủ nghĩa Dân chủ tư sản Cụ cũng chỉ mới kịp làm quen với nó không lâu trên sách báo ít ỏi hạn chế khi ở Nhật Bản, ở Trung Quốc, vì Cụ mải lo tổ chức sắp xếp mọi chương trình kế hoạch hành động mà bạo động. Cho nên trong những ngày sống “cô liêu” này Cụ đành giết thì giờ bằng cách đưa “kho tàng triết học phương Đông” ra mà diễn giải, chú thích bằng quốc âm, để “cung cho kẻ hậu nọc”. Cụ đã dành không ít thời gian để biên soạn sách “Quốc văn Chu Dịch diễn giải” kể có trên nghìn trang sách cũng như soạn sách “Khổng học đăng” ngót 2000 trang. Khác với khi hăng hái xông vào trường hoạt động, Cụ từng nói “Sách vở thánh hiền tẻ ngắt đọc chỉ mụ người”, bây giờ Cụ lại thấy: “Cớ sao người nước ta sinh ở Đông phương, lại dòng dõi con nhà Hán học mà nỡ bỏ Dịch học chẳng ai nhắc tới”

     (Phát đoan từ của Chu Dịch)

     Và trong quyển Khổng học đăng (ngọn đèn Khổng học) có đoạn Cụ viết:

     “Chúng ta xem suốt hết mấy đoạn lịch sử như trên kia chắc ai cũng biết rằng: Nhân cách đức Khổng Tử so đọ với hai vị Giáo tổ ở trong thế giới là đức Thích Ca và đức Jesus tuy tâm lý thương người đau đời in như nhau, nhưng mà làm mô phạm cho loài người, dựng nền tảng cho đạo người thời có lẽ đức Khổng Tử là làm một tiên thánh tiên sư cho chúng ta có thể hơn hai vị kia. Vì cớ sao mà nói thế?

     Bởi vì Phật Thích Ca thời lý tưởng quá chừng cao, Jésus thì học thuyết hơi hẹp. Kìa cái nghĩa lấy tịnh thổ làm chốn quy y và cái thuyết chuyên chế bằng thượng đế, thiên phụ, không thể nào bằng Khổng học là thích trung. Vẫn không phải là lý luận quá cao, mà cũng chẳng phải là thần quyền chuyên chế, thời có gì tận thiện tận mỹ hơn Khổng Tử nữa -?

     Ví như chúng ta học theo Phật Thích Ca hay theo Jésus mà nhân cách giữa bản thân vẫn thua xa hai người ấy, mà chỉ cắp trộm lấy xép bã cảu hai ngài, thì té ra là thành một tay bợm lừa đời, mê chúng mà thôi.

     Vì vậy mà chúng ta muốn; ở trong thì bồi dưỡng lấy nhân cách, mà ở ngoài thì vun trồng lấy nhân đạo, thiệt chẳng gì bằng sự sự đức Khổng Tử”

     (Phan Bội Châu: Khổng học đăng, Khổng Tử lược truyện)

     Dừng lại ở nhà Nho tư sản hóa Phan Bội Châu và dẫn thêm một số tư liệu về Cụ, người đại diện cho một xu hướng tư tưởng tiến bộ nhất trong số nhà Nho thời bấy giờ, cũng nhằm để nói lên một thực tế là: Nho giáo với 2000 năm du nhập, truyền bá và thống trị đời sống tinh thần, tư tưởng và xã hội nước ta đã là một gánh nặng cho di sản tinh thần của lịch sử phong kiến Việt Nam. Đến ngay như một Phan Bội Châu “cách mạng nhất” trong đám Nho sĩ, cuối cùng cũng vẫn tỏ ra dan díu nặng nề đối với “món nợ” ấy. Và như chúng ta cũng biết, trước khi tạ thế, Phan Bội Châu đã không quên trối trăng lại cho chúng ta món nợ tinh thần ấy. Trong câu đối “tự vãn” Phan đã viết:

“Thiên hồ nhiên? Đế hồ nhiên? Tử dĩ đồ h-, cánh tích hung trung mai Khổng, Mạnh;

“Quốc như thử! Dân như thử! Sinh phục hà luyến, hảo từng thế ngoại tác Hy, Hoàng!”

(Trời sao vầy? Chúa sao vầy? Chết âu cũng là không, chạnh tiếc trong lòng vùi Khổng, Mạnh.

Nước như thế! Dân như thế! Đời còn gì đáng tiếc, thôi ra ngoài cuộc học Hy, Hoàng!)

Thay lời kết

     Nho giáo – đối với nhân dân ta quả là một món nợ đời. Về danh nghĩa, chính quyền thực dân Pháp đã khai tử cho nó từ năm 1919, nhưng là một sự khai tử nửa vời. Vẫn còn một triều đình phong kiến, Khải Định rồi Bảo Đại tồn tại bên cạnh một phủ Toàn quyền, một dinh Khâm sứ. Một nhà nước thực dân nửa phong kiến đến lúc này còn chính thức thống trị nhân dân ta cho đến ngày chúng bị cách mạng dân tộc dân chủ Đảng Cộng sản lãnh đạo quật ngã hồi tháng 8 – 1945.

     Tính cho đến ngày Tháng Tám cách mạng năm 1945, bọn thực dân Pháp, bọn phát xít Nhật vẫn còn tiếp tục dựa vào bè lũ vua quan phong kiến và hệ tư tưởng thống trị Nho giáo để áp bức bóc lột nhân dân ta, để đối đầu với phong trào giải phóng dân tộc do giai cấp vô sản lãnh đạo với hệ tư tưởng Mác – Lênin được quán triệt trong mọi đường lối chủ trương của Đảng.

     Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền dân chủ của giai cấp công nông được thiết lập trên cả đất nước ta. Chế độ phong kiến bị lật đổ hòan toàn và hệ tư tưởng Nho giáo bị bồi thêm một đòn chí tử cùng với hệ tư tưởng tư sản yếu ớt lúc đó cũng bị bẻ gãy cùng. Nhưng như vừa nói, Nho giáo có lịch sử của hàng nghìn năm bén rễ và cắm sâu gốc ở đất nước ta, đã từng có một sinh mệnh riêng của nó, có thời kỳ nó từng giữ vị trí quang vinh trong kiến trúc thượng tầng của Nhà nước phong kiến. Từ đó nó cũng dẫn dần thẩm thấu, thậm chí ở một số phương diện đã khá thâm căn cố đế trong tất cả mọi tầng lớp của nhân dân ta. Do vậy, không phải một sáng một chiều mà đã có thể vặt hết rễ nhổ hết gốc nó được. Những tàn dư tác hại của Nho giáo sau khi đế quốc bị đánh đuổi, vua quan phong kiến bị lật nhào rồi vẫn còn tiếp tục phát huy ảnh hưởng trong một số mặt thuộc đời sống tinh thần – xã hội của xã hội ta, của cả chính mỗi người chúng ta ngày nay. Quét sạch mọi tàn dư, ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong đời sống xã hội cũng là một nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa hiện nay.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX,
Tại Thanh Hóa, ngày 18-19/10/2008

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Mấy nhận xét về Nho giáo thời Nguyễn (Tác giả: PGS Chương Thâu)