Nghiên cứu, giới thiệu Văn học Việt Nam ở Nhật Bản (Phần 1)

THE INTRODUCTION AND STUDIES OF VIETNAMESE LITERATURE IN JAPAN

ĐOÀN LÊ GIANG
(Phó giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM)

     Việc nghiên cứu về Việt Nam ở Nhật Bản khá sớm, từ đầu thập niên 1930 đã có rải rác một số công trình. Đến thập niên 1940 thì số bài viết, sách du ký, sách dịch và nghiên cứu về Việt Nam tăng lên nhiều. Trong bối cảnh ấy, văn học Việt Nam cũng được nghiên cứu, giới thiệu và dịch thuật ở Nhật Bản với số lượng khá phong phú. Từ đầu thập niên 1960 đến nay, văn học Việt Nam được dịch, nghiên cứu, giới thiệu ở Nhật Bản với số lượng lớn và có hệ thống, đưa Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia nghiên cứu văn học Việt Nam hàng đầu trên thế giới. Bài viết này giới thiệu tổng quan tình hình nghiên cứu văn học Việt Nam ở Nhật Bản, bao gồm văn học cổ điển (văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm) và văn học hiện đại (viết bằng chữ Quốc ngữ Latin). Phần đầu bài viết giới thiệu các thế hệ học giả Nhật Bản nghiên cứu văn học Việt Nam và những công trình chung của họ, phần sau trình bày riêng các nghiên cứu Nguyễn Du – Truyện Kiều, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh – những tác giả được học giới Nhật Bản yêu thích, quan tâm đặc biệt.

1. Các thế hệ học giả Nhật Bản nghiên cứu về văn học cổ điển Việt Nam

 1.1. Thế hệ Phật – Ấn (trước 1945)

     Phật-Ấn (Futsu-In仏印), cách gọi tắt của người Nhật về Đông Dương: Phật lãnh Ấn Độ Chi Na 仏領印度支那 (Futsu ryo Indoshina: Đông Dương thuộc Pháp), tên gọi này tồn tại từ khi người Pháp đặt nền đô hộ lên vùng đất này cho đến 1945 thì chấm dứt. Đây cũng chính là giai đoạn hình thành nên thế hệ học giả, nhà văn Nhật Bản đầu tiên nghiên cứu, giới thiệu, dịch thuật về Việt Nam. Phần lớn họ là các giáo sư Đông Phương học ở các đại học danh tiếng như: GS Matsumoto Nobuhiro, Trưởng khoa Văn học Đại học Keio, người mở đầu cho việc nghiên cứu văn học cổ điển Việt Nam ở Nhật Bản; Okuno Shintaro, Giáo sư Đại học Keio, nhà Trung Quốc học, người Nhật đầu tiên nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục; Fujiwara Riichirô 藤原利一郎 (1915-2008), Giáo sư Đại học Nữ Kyoto, chuyên gia về sử Đông Nam Á; Yamamoto Tatsurô山本達郎 (1910-2001), Giáo sư Đại học Tokyo, chuyên gia về lịch sử Phương Đông,… Có người lại là nhà văn, dịch giả như Komatsu Kiyochi, người Nhật dịch Truyện Kiều đầu tiên. Trong số ấy, những người sau đây có nhiều thành tựu nghiên cứu văn học cổ điển Việt Nam.

     Matsumoto Nobuhiro 松本信広 (1897-1981): tốt nghiệp Khoa Văn học Đại học Keio năm 1920, lấy bằng tiến sĩ ở Đại học Sorbonne năm 1924, về nước làm giáo sư Đại học Keio. Năm 1933, sang Việt Nam nghiên cứu, năm 1934 ông cho in bộ Thư mục sách Hán Nôm của trường Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội (Lương Thị Thu, Nguyễn Thị Oanh, 2006). Ông có nhiều công trình có giá trị về văn hóa phương Đông: Nghiên cứu về thần thoại Nhật Bản (1931); Dân tộc và văn hóa ở Đông Dương (1942); Nhập môn tiếng An Nam, Khảo luận về văn hóa các dân tộc Đông Á (1968),…

     Okuno Shintaro 奥野信太郎 (1899-1968): Tốt nghiệp Đại học Keio, du học Bắc Kinh, sau 1945 trở thành giáo sư Đại học Keio, viết nhiều sách về Trung Quốc theo dạng tùy bút rất thú vị: Chi Na văn học tân tuyển (1930), Tùy bút Bắc Kinh (1940), Vẻ đẹp Trung Quốc (1963),… Về văn học Việt Nam, ông có bài Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm của văn học An Nam đăng trên Tạp chí Văn học Trung Quốc (1940).

     Hatakenaka Toshiro 畠中 敏郎 (1907-1998): Tốt nghiệp Khoa Pháp văn, Trường Đại học Ngoại ngữ Osaka năm 1927. Từ năm 1931-1944, làm giáo sư Đại học Ngoại ngữ Osaka. Năm 1941, ông có đi Việt Nam và Campuchia hai tháng, về nhà viết Phật Ấn (Đông Dương) phong vật chí (1943). Năm 1944, làm giáo sư trong quân đội, làm việc ở Sài Gòn. Năm 1946 về nước, quay lại làm giáo sư Đại học Ngoại ngữ Osaka. Tác phẩm: Lối nhỏ của văn học so sánh (比較文学の小道, 1973), nhiều tập dịch thơ Pháp: Chateaubriand, Alphonse Daudet, George Sand,…

     Komatsu Kiyoshi 小松 清 (1900-1962): Dịch giả văn học Pháp, nhà văn, nhà phê bình văn học nổi tiếng ở Nhật Bản. Năm 1921, du học Pháp. Về nước dịch và giới thiệu Andre Malreaux, Andre Gide. Năm 1937, sang Pháp làm đặc phái viên cho tờ Hochi Shimbun. Năm 1940 về nước, sau đó đi Đông Dương làm tùy viên văn hóa Lãnh sự quán Nhật Bản tại Việt Nam, cố vấn Viện Văn hóa Nhật Bản tại Hà Nội. Tác phẩm: Những chiến sĩ thầm lặng – Nhật ký thời chiến ở Paris (1940), Trở lại Đông Dương (1941), Kim Vân Kiều – Nguyễn Du (dịch, 1942), Máu Việt Nam (1954), Việt Nam (1955), Lịch sử văn học Pháp (1955),…

     1.2. Thế hệ “Chiến tranh Việt Nam” (1945-1975)

     Thế hệ thứ hai là “thế hệ chiến tranh Việt Nam”. Chiến tranh Việt Nam đã khiến Việt Nam trở thành chủ đề hàng ngày trên báo chí, nơi hội họp và nhất là ở đại học thời bấy giờ. Năm 1964, Bộ Giáo dục Nhật Bản cho thành lập phân khoa tiếng Việt tại Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, và 10 năm sau, năm 1974, tại Đại học Ngoại ngữ Osaka. Ở Đại học Keio cũng có Trung tâm Nghiên cứu về Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông, trong đó trọng tâm là Việt Nam. Các giáo sư lớp trước như Hatakenaka Toshiro, Matsumoto Nobuhiro đã truyền tư liệu, kinh nghiệm và cảm hứng cho lớp sinh viên, nghiên cứu sinh, sau này là các giáo sư đại học kế tục mình. Thế hệ này có hai học giả tiêu biểu là: Takeuchi Yonosuke ở Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo và Kawamoto Kunie ở Đại học Keio, ”truyền nhân” của hai vị giáo sư nói ở trên.

     Takeuchi Yonosuke 竹内与之助 (1922-1999): Tốt nghiệp Khoa Pháp văn Trường Ngoại ngữ Osaka năm 1941. Những năm đầu thập niên 1960, ông đến Sài Gòn dạy ở Trường Sinh ngữ thuộc Đại học Sài Gòn bốn năm rưỡi. Sau đó, về Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo để xây dựng Bộ môn Ngôn ngữ và Văn học Việt Nam. Các sách đã xuất bản: Tiểu từ điển Nhật-Việt, Tiểu từ điển Việt-Nhật, Từ điển chữ Nôm. Dịch Kim Vân Kiều, Đoạn tuyệt, Hồn bướm mơ tiên,…

     Kawamoto Kunie 川本 邦衛 (1929-2017): Tốt nghiệp Khoa Trung văn Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, học xong cao học ở Đại học Keio năm 1958, ở lại trường làm trợ giảng ở Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn hóa. Năm 1971 được phong Giáo sư, năm 1990 làm giám đốc trung tâm ấy. Các sách đã xuất bản: Việt Nam – thơ và sử (1967), Hồ Chí Minh – thơ và nhật ký (1970), Bất khuất (Nguyễn Đức Thuận, dịch, 1976), Tuyển tập truyện ngắn thế giới – Đông Nam Á (1981), Truyền kỳ mạn lục san bản khảo (1998),…

     1.3. Thế hệ sau 1975

     Tiếp theo thế hệ Chiến tranh Việt Nam là thế hệ Hậu chiến, họ là học trò của thế hệ trước, kế nghiệp thầy trở thành các nhà Việt Nam học trụ cột tại các trường đại học ở Nhật Bản suốt mấy thập niên từ 1980 đến nay. Những người có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu về văn học cổ điển Việt Nam là các học giả sau đây:

    Kawaguchi Kenichi 川口健一, sinh năm 1949, tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Tokyo năm 1976, làm giảng viên trường này năm 1984, được phong Giáo sư năm 2002. Ông là nhà nghiên cứu và dịch giả văn học Việt Nam. Các sách đã xuất bản: Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (dịch chung, 1991), Nhật – Việt tiểu từ điển (soạn chung, 1982), Thạch Lam: Nắng trong vườn (dịch, 2000), Lời mời gọi vào văn học Đông Nam Á (soạn chung, 2001),…

    Imai Akio 今井 昭夫 , sinh năm 1956, tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Tokyo năm 1979, làm giảng viên trường này năm 1984. Được phong Giáo sư năm 2005. Ông là nhà nghiên cứu lịch sử, tư tưởng Việt Nam, nhưng cũng có nhiều công trình về văn học Việt Nam. Các sách đã xuất bản: Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (tiếp theo) (dịch chung, 1987), Ngôn ngữ và văn hóa ASEAN (1997), Lịch sử Việt Nam (dịch chung, 2008), Để hiểu biết về Đông Nam Á (soạn chung, 2014),…

     Shiraishi Masaya 白石 昌也, sinh năm 1947, tốt nghiệp Đại học Tokyo năm 1970. Năm 1979 học sử Đông Nam Á tại Đại học Cornell Hoa Kỳ. Năm 1982 là giảng viên Bộ môn Việt-Thái, Đại học Ngoại ngữ Osaka. Từ 1983-1985 Giáo sư thỉnh giảng Đại học Paris7. Năm 1992 trình luận án tiến sĩ Phong trào dân tộc Việt Nam và Nhật Bản, châu Á cận đại: trọng tâm là tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu (ベトナム民族運動と近代日本・アジア ファン・ボイ・チャウの革命論を中心に) ở Đại học Tokyo. Năm 1999 ông làm Giáo sư Đại học Waseda. Các sách đã xuất bản: Xã hội và quốc gia Đông Nam Á 5 (1993), Anh hùng và hoàng tử Việt Nam hướng đến Nhật Bản: Phan Bội Châu và Cường Để (2012).…

     Sakurai Yumio 桜井由躬雄 (1945-2012), tốt nghiệp ngành Sử phương Đông của Đại học Tokyo. Năm 1977 làm nghiên cứu ở Trung tâm Đông Nam Á, Đại học Kyoto. Năm 1989 bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Tokyo: Sự hình thành làng Việt Nam: Lịch sử chế độ công điền (ruộng công của làng)/ ベトナム村落の形成-村落共有田=コンディエン制の史的展開. Năm 1994 được phong Giáo sư. Ông là nhà nghiên cứu lịch sử, nhưng cũng có nghiên cứu về văn học. Các sách đã xuất bản: Văn hóa lúa nước vùng Giang Nam Trung Quốc (1984), Từ điển Việt Nam (1999), Đông Nam Á tiền cận đại (2006),…

     Dịch và giới thiệu văn học hiện đại Việt Nam có bốn tác giả đáng chú ý sau:

     Takano Isao 高野功, dịch giả văn học Việt Nam, nhà báo. Takano sinh năm 1943 ở Kobe, tốt nghiệp Khoa Tiếng Việt, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1971. Năm 1978, ông quay lại Việt Nam với tư cách là phóng viên báo Akahata lấy tài liệu về cuộc chiến biên giới Việt-Trung. Ông lên tận Lạng Sơn để quan sát trực tiếp cuộc chiến, chứng kiến tội ác của quân bành trướng Trung Quốc, ông bị trúng đạn, hy sinh vào ngày 07/3/1979. Takano là dịch giả hai tác phẩm nổi tiếng của văn học Việt Nam kháng chiến: Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi và Áo trắng của Nguyễn Văn Bổng, đều do Shinnihon xuất bản 1980. Ngoài hai dịch phẩm trên, ông còn để lại tập bản thảo Ngày 07 tháng 3 ở Lạng Sơn, Shinnihon xuất bản, 1979. Tình cảm của ông đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam hết sức nồng hậu. Người Việt Nam vẫn nhớ đến ông qua bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Phó Đức Phương: Takano nhân chứng quả cảm: “Xin hát về người con của đất nước tuyết trắng Fuji hùng vĩ. Anh đã đến quê tôi trong những ngày lửa khói, tâm hồn anh tươi thắm như hoa anh đào hé nở. (…) Ôi! Isayo Takano! Chiều nay tôi đứng đây nghe lưng trời gió nổi! Ôi! Isayo Takano! Chặng đường anh qua hôm nay hoa đang nở thắm! Ôi! Isayo Takano! Gửi tới quê anh mối tình lắng sâu lòng tôi!…”. Ông ngã xuống ở Việt Nam để lại vợ và con gái nhỏ ở Nhật Bản.

    Higuma Masumi 日隈真澄, nhà nghiên cứu Việt Nam, ông đã dịch ít nhất là 8 quyển sách độc lập của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi, Chu Văn, Phan Tứ, Nguyễn Sáng, Lê Văn Thảo, Đặng Thanh. Sách đều do Shinnihon và Shinkyo xuất bản từ 1981 đến 1983. Higuma sinh năm 1948 ở thành phố Kagoshima (tỉnh Kagoshima, phía nam đảo Kyushu). Năm 1972 học tiếng Việt ở Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, năm 1973 đi Việt Nam, học tiếng Việt ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, năm 1976 tốt nghiệp. Từ 1977 đến 1989 là giáo sư thỉnh giảng Đại học Ngoại ngữ Tokyo và Đại học Seijo (Tokyo). Sau đó, giảng dạy ở Học viện Ngôn ngữ Á-Phi, Sở nghiên cứu Ngữ học (Bộ Ngoại giao), Hội Mậu dịch Nhật-Việt,…

    Tomita Kenji 冨田 健次, Giáo sư Trường Đại học Ngoại ngữ Osaka – trường đại học có cơ sở giảng dạy, nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam lớn thứ hai ở Nhật Bản sau Đại học Ngoại ngữ Tokyo. Tomita Kenji sinh năm 1947 ở tỉnh Nagasaki. Tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, thạc sĩ Đại học Giáo dục Tokyo. Năm 1982-1983 học Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1977 đến khi về hưu (2013) ông là giảng viên Trường Đại học Ngoại ngữ Osaka, được phong Phó Giáo sư năm 1983, Giáo sư năm 1994. Về việc dịch văn học Việt Nam, ông có khuynh hướng thiên về văn học dân gian. Tập truyện cổ Việt Nam đầu tiên của ông (dịch chung) được xuất bản năm 1986, tập thứ hai xuất bản năm 1991. Ngoài văn học dân gian, ông còn dịch tiểu thuyết Hòn đất của Anh Đức (bản tiếng Nhật có tên là Hondat dôkutsu no yoake ホンダット洞窟の夜明け/ Bình minh trong hang Hòn Đất), Hataka shoten xuất bản năm 1992, sách in ở Đài Loan.

     Kato Sakae 加藤 栄, sinh năm 1953, tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Tokyo, Phó Giáo sư Khoa Quan hệ quốc tế Đại học Daito Bunka, dịch giả và nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Các sách đã xuất bản: Hiểu thêm về Việt Nam (1995), Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (dịch chung, tập 1: 1995, tập 2: 2005), Thưởng thức văn học Việt Nam (1998), dịch tác phẩm của Dương Thu Hương, Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Chí Huân, Nguyễn Nhật Ánh,…

     Nohira Munehiro 野平 宗弘, tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Tokyo năm 1995, học trò của GS Kawaguchi và GS Imai, bảo vệ luận án tiến sĩ tại trường này năm 2007. Hiện là giảng viên Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo. Các sách đã xuất bản: Đọc Henry Miller (2008), Ý thức mới – Phạm Công Thiện, nhà tư tưởng Việt Nam lưu vong (2009), Bacchanalia – Yến tiệc văn chương và rượu (2012), Phạm Công Thiện “Im lặng hố thẳm” (2018),…

2. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn học Việt Nam

     Nghiên cứu đầu tiên về văn học cổ điển Việt Nam của học giả Nhật Bản có lẽ là Thư mục sách Hán Nôm của trường Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội (河內佛國極東學院 所藏安南本書目) do Matsumoto Nobuhiro thực hiện 1933, Hội Sử học Mita xuất bản 1934 (三田史学会、1934、史学Vol.13, No .4 (1934.12), p.203(785)-204(786)).

     Nghiên cứu đầu tiên về Phan Bội Châu là Truyện các chí sĩ tiên phong Đông Á (東亜先覚志士記伝) do Hắc Long Hội/ Kokuryukai (黒龍会) biên tập, Kokuryukai Shuppanbu xuất bản năm 1935, trong đó có truyện về Phan Bội Châu (Nguyễn Tiến Lực, 2017). Nghiên cứu đầu tiên về Truyền kỳ mạn lục là bài Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm của văn học An Nam của Okuno Shintaro奥野信太郎, đăng trên Tạp chí Văn học Trung Quốc số 67 năm 1940 (「安南文学の一例として見たる『傳奇漫録』『中国文 学』六十七号、1940年) (Kawamoto Kunie, 1998, tr.16). Công trình nghiên cứu và dịch Truyện Kiều đầu tiên ở Nhật Bản là Kim Vân Kiều do Komatsu Kiyoshi dịch (Toho xuất bản, 1942). Chúng tôi sẽ trình bày kỹ hơn ở các mục 3, 4 dưới đây.

     Công trình nghiên cứu có hệ thống về lịch sử và thơ ca cổ điển Việt Nam ra đời sớm nhất là Việt Nam thơ và sử (ベトナム詩と歴史) của GS Kawamoto Kunie (Đại học Keio), Bungeshunshu xuất bản, Tokyo, 1967. Tập sách có 12 chương, được viết với các tên chương mục rất thu hút, chẳng hạn như: Chương 1: Sự xuất hiện đất nước của Rồng;

     Chương 2: Nước, lửa và trân châu; Chương 3: Bắt đầu ý thức dân tộc, Chương 4: Nước An Nam trong đêm đen đẫm máu, Chương 5: Bước tới những triều đại độc lập,… Bằng cái nhìn của thế hệ trí thức trẻ Nhật Bản chống chiến tranh Việt Nam, Kawamoto thể hiện một thiện cảm không che giấu về lịch sử anh hùng và nền thơ ca cổ điển giàu tinh thần phản kháng của dân tộc Việt Nam. Các nhà thơ Hán Nôm lớn nhất của văn học Việt Nam đã được giới thiệu một cách trang trọng, đó là: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh.

     Sau năm 1975, Kawamoto tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu lịch sử và văn chương cổ điển Việt Nam. Ngoài các nghiên cứu về Truyện Kiều, Phan Bội Châu (sẽ nói kỹ ở dưới), ông là học giả Nhật Bản nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục chuyên sâu nhất.

     Nghiên cứu đầu tiên về Truyền kỳ mạn lục của các học giả Nhật Bản là bài Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm của văn học An Nam của Okuno Shintaro đã nói ở trên. Ngoài ra, còn có Hirai Tooru 平井 徹 với bài: Từ Cai Hạ đến sông Ô – Điển cố Hạng Vũ và Truyền kỳ mạn lục, Tạp chí Giáo dục Hán tự Hán văn (số 27), tháng 11/ 1998, p.94-107 ( 垓下から烏江へ–『伝奇漫録』と項羽故事).

     Năm 2011, Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo đã tổ chức Hội thảo quốc tế Truyện truyền kỳ Đông Á: Cuộc du hành của “Mẫu đơn đăng ký” ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam (シンポジウム報告 牡丹灯籠の旅 : 中国、日本、ベトナム). Các tham luận sau khi trình bày đã được dùng ở đâu chúng tôi không rõ, còn bản thân chúng tôi thì có bài: So sánh “Chuyện cây gạo” của Nguyễn Dữ với “Mẫu đơn đăng ký” của Cù Hựu (ドアン・レーザン:「木綿樹伝」(阮嶼『伝奇漫録』)と「牡丹灯記」(瞿佑『剪灯新 話』): 比較考察 ). Sau đó, bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và tiếng Nhật (日本語・日本学研究) của Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản Quốc tế của Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo số 1 năm 2011, pp.129-135.

     Ngoài những bài viết trên thì những thành tựu nghiên cứu về tác phầm “Thiên cổ kỳ bút” này chủ yếu là của GS Kawamoto Kunie.

     Với sở trường Hán văn cổ và Trung văn, Kawamoto Kunie đã khởi sự việc nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục từ khá sớm từ năm 1969, đó là bài: Truyền kỳ mạn lục tiểu khảo (伝奇漫録小攷) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn nghệ, số 27 tháng 3/1969, pp.375~394. Tiếp theo là bài: Về chữ Nôm trong Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (伝奇漫録増補解音集註」にみえる〔ジ〕喃について), Đại học Keio xuất bản, Kỷ yếu của Sở Nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa, số 6, tháng 12/1974, p.19~42. Bài này mở đầu cho loạt bài nghiên cứu trên tạp chí của Sở Nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa Đại học Keio với tên gọi chung: Sổ tay nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục (「伝奇漫録」研究ノート), bài 2 đăng số 16 tháng 12/1984, pp.83~107; bài 3 đăng số 17 tháng 12/1985, pp.75~89; bài 4 đăng số 19 tháng 12/1987, pp.41~74; bài 5 đăng số 20 tháng 12/1988, pp.33~73; bài 6 đăng số 23 tháng 12/1991, pp.39~59. Kết thúc loạt bài này là bài: Cách dịch tục ngữ trong Tân biên Truyền kỳ mạn lục (Phúc khắc bản) (覆刻本「新編伝奇漫録」俗語訳の性格) đăng số 26, tháng 12 năm 1994, pp.93~114.

     Từ các bài viết về Truyền kỳ mạn lục đăng tạp chí, GS Kawamoto Kunie đã hệ thống hóa, chỉnh sửa thành sách Truyền kỳ mạn lục san bản khảo (傳奇漫録刊本攷), Sở Nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa Đại học Keio xuất bản, 1998. Có thể nói đây là công trình công phu, dày dặn, có nhiều đóng góp nhất của các học giả nước ngoài về Truyền kỳ mạn lục. Sách có 6 chương: Chương 1: Tác giả và năm sáng tác; Chương 2: Tiêu đề và thủ pháp của Truyền kỳ mạn lục; Chương 3: Về bản in Truyền kỳ mạn lục; Chương 4: Về hai xã Hồng Liêu và Liễu Chàng; Chương 5: Về kiêng húy trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục; Chương 6: Chú thích bản in Truyền kỳ mạn lục.

     Cùng thế hệ với GS Kawamoto Kunie, ở Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo có GS Takeuchi Yonosuke. Riêng về văn học cổ điển Việt Nam, GS Takeuchi có các công trình nghiên cứu, giới thiệu rất căn bản, hàn lâm theo kiểu nghiên cứu của giới đại học. Bên cạnh việc dịch, giới thiệu Truyện Kiều của Nguyễn Du (chúng tôi sẽ nói kỹ ở dưới), Takeuchi dịch và giới thiệu Chinh phụ ngâm khúc (征婦吟, Daigakushorin xuất bản, phát hành, Tokyo, 1984); Nguyễn Đình Chiểu: Lục Vân Tiên (阮廷炤, 陸雲仙, Daigakushorin xuất bản, phát hành, Tokyo, 1986).

     Tiếp theo thế hệ Chiến tranh Việt Nam là thế hệ Hậu chiến, họ là học trò của thế hệ trước, kế nghiệp thầy trở thành các nhà Việt Nam học trụ cột ở các đại học từ thập niên 1980 đến nay.

     GS Kawaguchi Kenichi viết về Việt Nam trong công trình viết chung với GS Udo Seiji: Lời mời gọi đến văn học Đông Nam Á (東南アジア文学への招待, Dandansha xuất bản, 2001).

     GS Imai Akio quan tâm đến phương diện tư tưởng của các nhà văn cổ điển Việt Nam, tập trung nhất là tư tưởng Nho giáo, như một số bài tiêu biểu dưới đây: Nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam trong những năm gần đây: Trọng tâm là những nghiên cứu của GS Trần Đình Hượu (近年のベトナムにおけるベトナム儒教研究 : チャン・ディン・フオウ教授の研究を中心に), kỷ yếu Tập tham luận của Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo số 42 ngày 10 tháng 3 năm 1991, pp.295-307; Tôn giáo và “quốc dân” trong người trí thức Việt Nam cận đại: từ Nguyễn Trường Tộ đến Nguyễn An Ninh (近代ベトナム知識人における 「宗教」 と 「国民」 : グエン・チョオン・トからグエン・アン・ニン まで), Kỷ yếu Tập tham luận của Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo số 52 ngày 30 tháng 3 năm 1996, pp.331-341,…

     Quỹ Giao lưu Quốc tế (Japan Foundation) đã dành nhiều kinh phí cho việc nghiên cứu Việt Nam. Năm 1995 Trung tâm Châu Á của Quỹ này đã tổ chức tọa đàm về văn học Việt Nam do Kato Sakae, dịch giả nổi tiếng về văn học Việt Nam hiện đại trình bày. Tập bài giảng đã được xuất bản sau đó với nhan đề Thưởng thức văn học Việt Nam (từ Tọa đàm Hiểu biết châu Á, lần 2, 1995) (ベトナム文学を味わう), Japan Foundation xuất bản, 1998. Có thể coi tập sách như một cuốn giáo trình văn học Việt Nam thu nhỏ. Sách chia ra thành 10 chương: Chương 1: Bối cảnh của văn học Việt Nam; Chương 2: Văn học tiền cận đại: Văn học truyền miệng; Chương 3: Văn học tiền cận đại: Văn học viết; Chương 4: Đối với văn học châu Á: Cận đại là gì?; Chương 5: Sự hình thành văn học cận đại (1): Văn học thời giao thoa Cũ – Mới; Chương 6: Sự hình thành văn học cận đại (2): Văn học nửa đầu thập niên 1930; Chương 7: Nhà văn và chính sách văn học của Đảng Cộng sản; Chương 8: Văn học giai đoạn chống Mỹ cứu nước; Chương 9: Xu hướng mới của văn học Hậu chiến (sau 1975); Chương 10: Văn học sau Đổi mới. Văn học cổ điển được trình bày kỹ ở chương 3 với các mục: Văn học thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn; Văn học chữ Nôm,…

     Giáo sư Sakurai Yumio, làm việc tại Đại học Tokyo, cùng tiến sĩ người Việt là Phạm Thị Thu Giang (ĐH KHXH&NV Hà Nội) cho ra đời công trình Phật giáo Việt Nam (trong bộ sách lớn Lịch sử Phật giáo châu Á (mới)/ 新アジア仏教史, Kosei xuất bản, năm 2010). Qua tập sách này mà văn học Phật giáo Việt Nam thời Lý Trần được giới thiệu rộng rãi ở Nhật Bản. Xin điểm qua nội dung chính: Quá trình hình thành Phật giáo Việt Nam; Phật giáo Việt Nam sơ kỳ (Phật giáo thời Bắc thuộc, Phật giáo Lâm Ấp, Champa, Phật giáo Phù Nam); Phật giáo Việt Nam sau khi giành độc lập; Từ cận đại đến hiện đại.

     Trong việc nghiên cứu văn học cổ điển (Hán Nôm) Việt Nam thì Truyện Kiều của Nguyễn Du và cuộc đời, thơ văn Phan Bội Châu là hai chủ đề được giới nghiên cứu Nhật Bản quan tâm nhất. Sở dĩ có tình trạng ấy, thì ngoài lý do giá trị và tầm vóc của các tác giả, tác phẩm đó, còn có lý do là tác phẩm, tác giả đó có những liên hệ mật thiết với Nhật Bản.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ IV với chủ đề Những vấn đề giảng dạy tiếng Việt và nghiên cứu Việt Nam trong thế giới ngày nay.
NXB: Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2019 (từ  trang 49 đến trang 63)

Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com)

     Mời xem tiếp:

Nghiên cứu, giới thiệu Văn học Việt Nam ở Nhật Bản (Phần 2)