Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu
Tiến sĩ VŨ HỒNG VẬN, Tiến sĩ PHẠM DUY HOÀNG
I. KHÁI NIỆM TÍN NGƯỠNG, TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM, TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
1. Khái niệm tín ngưỡng
Để tìm hiểu về tín ngưỡng thờ Mẫu, trước tiên ta phải tìm hiểu về khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của người Việt Nam. Bởi vì, hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa có một quan điểm thống nhất xem thờ Mẫu là một tín ngưỡng hay một tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác-Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Điều này đã được Ph. Ăngghen khẳng định: “Tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế(1).” Trong lịch sử tiến hóa của mình, con người trước hết có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng, do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên, do đó đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng (đặc biệt là thờ cúng nhiên thần). Khi xã hội có sự phân chia giai cấp và áp bức giai cấp ngày càng trở nên gay gắt thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp. Một bộ phận người dân lao động rơi vào tình thế bế tắc, bất lực trước các thế lực thống trị; thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn và khả năng giải thích của con người, đã gây ra cho họ những sợ hãi, lo lắng. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của các lực lượng thần bí. “Trong những thời kỳ đầu của lịch sử, chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp… Nhưng chẳng bao lâu bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn có cả những lực lượng xã hội tác động – những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy(1).” Khi bàn về vấn đề này, V. I. Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu(2).”
Tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ mật thiết mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn khái niệm tôn giáo(3). Trong giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học có viết: “Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng, một điều gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn giáo. Còn tôn giáo thường được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng có quan niệm, ý thức, hành vi và các tổ chức tôn giáo(4).”
Theo Đặng Nghiêm Vạn: “Thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin nói chung (belief, believe, croyance) hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance religieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm tin tôn giáo (belief, believer theo nghĩa hẹp croyance religieuse) thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo(1).”
Một số nhà nghiên cứu khác như Phan Kế Bính, Phan Ngọc, Toan Ánh xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Có ý kiến khác thì cho rằng, nội hàm cơ bản của tín ngưỡng là lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó – một lực lượng siêu thực, hư ảo, vô hình. Nguyễn Chính cho rằng tín ngưỡng là tâm linh, vì tín ngưỡng và tâm linh là hạt nhân của tín ngưỡng tôn giáo. Đây là niềm tin, sự trông cậy và yêu quý một thế lực siêu nhiên mà tri thức và kinh nghiệm của con người chưa đủ để lý giải được.
Trong Hán – Việt từ điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: “Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa(1).” Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng, tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh (niềm tin thiêng liêng) cũng có nghĩa tâm linh không phải là tôn giáo, tâm linh chỉ là khả năng dẫn tới tôn giáo. Hay tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, là một nhu cầu của xã hội và một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái của ý thức xã hội thỏa mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo – tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá trị, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý.
Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng giữa tín ngưỡng và tôn giáo. Điều này thể hiện ngay trong Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Hay trong Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2005 và mới đây nhất là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành vào tháng 11 năm 2016.
“Trong tình hình cuộc tranh luận về định nghĩa tín ngưỡng và tôn giáo chưa đưa ra một kết luận tương đối được nhiều người chấp nhận, thì sử dụng khái niệm tín ngưỡng như biểu hiện thấp hơn tôn giáo trong khi nghiên cứu các hiện tượng tôn giáo là điều cần thiết(2).” “Tôn giáo là một hệ thống tín ngưỡng cùng nghi lễ, không phải một tín ngưỡng đủ thành tôn giáo(1).” “Tín ngưỡng và tôn giáo có nhiều điểm giống nhau, đặc biệt là niềm tin, nhưng nó vô cùng phong phú và có sự độc lập tương đối(2).”
2. Khái niệm về tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Tín ngưỡng dân gian được hiểu là những hình thái tôn giáo sơ khai, chúng được hình thành trên cơ sở tâm cách nguyên thủy (primitive mentality) để nhận thức hiện thực và tác động đến hiện thực bằng các kỹ xảo (các biện pháp ma thuật) của thuyết hồn linh.
“Tín ngưỡng dân gian” ở đây nhằm phân biệt với những tín ngưỡng, tôn giáo chính thống của những xã hội đã có nhà nước (trước khi có nhà nước, chưa có sự phân biệt giữa văn hóa dân gian và văn hóa nhà nước, chưa có sự phân liệt giữa tín ngưỡng dân gian và tôn giáo chính thống). Ở đây, tác giả muốn nói rõ hơn rằng, tín ngưỡng dân gian là tín ngưỡng thuộc về tầng lớp bình dân trong xã hội, khác hẳn tín ngưỡng, tôn giáo chính thống của nhà nước phong kiến thiết lập và quản lý.
Những học giả phương Tây như Patrick, B. Mullen cho rằng, tín ngưỡng dân gian có một nội hàm rất phong phú và thật xác đáng: “Tín ngưỡng dân gian là một thể loại lớn bao gồm sự biểu cảm và cách ứng xử mà ta gọi là mê tín, tín ngưỡng bình dân, làm phép, các hiện tượng siêu nhiên, các câu của bà nội trợ già, y học dân gian, tôn giáo dân gian, các biểu hiện của thời tiết, cây cỏ, các lời cầu khấn tụng niệm, những người hay vật mang đồ rủi, đồ làm từ rễ cây, những điềm tốt hay điềm xấu, các chuyện yêu ma và những điều cấm kỵ(1).”
Xuất phát điểm, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp trồng lúa nước, có nền văn hóa bản địa phong phú, đa dạng mà phần lớn được hình thành từ trong đời sống, sinh hoạt của nhân dân lao động, cho nên không thể không quan tâm đến văn hóa dân gian nói chung cũng như tín ngưỡng dân gian nói riêng, coi đó là tài sản của chính những người dân lao động được trao truyền và lưu giữ qua nhiều thế hệ người Việt Nam, tồn tại song song bên cạnh các hình thái văn hóa, tín ngưỡng do nhà nước xây dựng, ban hành. Vì vậy, tín ngưỡng dân gian là hình thức tín ngưỡng quan trọng, phổ biến trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta bao đời nay, và thậm chí, nó thường xuyên được các nhà nước phong kiến Việt Nam coi trọng, công nhận.
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung không thể không nhắc đến vai trò của các triều đại phong kiến nước ta như: Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã phong sắc thần cho Thành Hoàng và cho nhiều nhân vật có công trong các cuộc chống giặc ngoại xâm, được thờ ở nhiều làng, xã, thậm chí là các thành thị Việt Nam. Với tính chất quan trọng và nổi bật này của tín ngưỡng dân gian Việt Nam mà tác giả Phan Hữu Dật đã nhận định như sau: “Về thực chất, tín ngưỡng là một bộ phận cấu thành của văn hóa dân gian(1).”
Với quan niệm cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn (vạn vật hữu linh), nên người Việt cổ đã thờ rất nhiều thần linh, đặc biệt là những sự vật có liên quan đến nông nghiệp như: trời, trăng, đất, rừng, sông, núi,… để được phù hộ, để được che chở cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi.
Đối với các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có hình thái tín ngưỡng riêng của mình. Tuy nhiên, đặc trưng nhất là các hình thái tín ngưỡng nguyên thủy và tín ngưỡng dân gian ngày nay còn lưu giữ được trong các nhóm dân tộc như nhóm Tày – Thái, nhóm Mông – Dao; nhóm Hoa – Sán Dìu – Ngái; nhóm Chăm – Ê đê – GiaRai; nhóm Môn – Khmer.
Bên cạnh đó, một trong những tín ngưỡng lâu đời, phổ biến nhất của người Việt và một số dân tộc thiểu số khác là việc thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ những người đã mất. Ở các gia đình người Việt, nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên và việc cúng giỗ, ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân rất được coi trọng.
Có thể nói: “Tục thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến nhất của người Việt Nam. Nó bắt nguồn từ niềm tin rằng linh hồn người chết vẫn tồn tại trong thế giới chúng ta và ảnh hưởng tới cuộc sống của con cháu(1).” Từ thực tế cuộc sống, sự sùng bái, nhớ ơn người đã khuất đã sinh ra tín ngường thờ cúng tổ tiên phổ biến sâu rộng ở người Việt. Hoạt động thờ cúng tổ tiên thường diễn ra vào những ngày giỗ, lễ, tết để tưởng nhớ những người đã khuất thể hiện sự ngưỡng mộ, tôn kính… và cầu mong được “phù hộ” cho mọi điều tốt lành. Người Việt Nam lấy lòng biết ơn làm nền tảng đạo lý, là con cháu đều phải biết ơn những đấng sinh thành. Ngày giỗ của cha mẹ, ông bà… là kỷ niệm ngày mất, tạo nên cơ sở cho quan hệ gia đình. Có tồn tại linh hồn hay không thì không thể biết, nhưng có một điều chắc chắn là con cháu thì phải biết ơn tổ tiên.
Tổ tiên là những bậc tiền bối cùng huyết thống đã mất, hoặc là trực hệ sinh ra cháu, chắt, hoặc là bang hệ, thuộc hàng tổ bác, chú, cô, dì. Tổ tiên có bên nội, bên ngoại: “nội thân, ngoại thích”. Nhưng trách nhiệm thờ cúng bao giờ cũng thuộc về bên nội. Việc thờ phụng tổ tiên có thể chia ra làm năm bậc:
Bậc thứ nhất là thờ phụng ông bà thủy tổ họ và anh em đồng hàng, được thờ tự ở từ đường của họ.
Bậc thứ hai là thờ phụng ông bà thủy tổ chi và tổ tiên trong phạm vi chi, được thờ tự ở ngôi nhà thờ phái.
Bậc thứ ba là thờ phụng ông bà thủy tổ chi và tổ tiên trong phạm vi chi, được thờ tự trong nhà thờ chi.
Bậc thứ tư là tổ tiên nhà mình từ hàng ông bà cố đến ông bà nội và đồng hàng, được thờ tự ở nhà thờ của gia tộc.
Bậc thứ năm là thờ phụng cha mẹ mình, khi mất được thờ tự ở nhà riêng của mỗi người con trai, hoặc tại nhà trưởng nam hoặc quý nam (con út).
Học giả Phan Ngọc cho rằng: “Hình thức thờ cúng này tìm thấy ở Việt Nam cách biểu hiện phổ biến nhất và đầy đủ nhất. Nó phổ biến nhất, vì người Việt Nam dù có theo Nho, Phật hay Lão đều thờ cúng cha mẹ. Bàn thờ cha mẹ có mặt tại mọi nhà kể cả ở các gia đình cộng sản hay công giáo. Mọi gia đình đều mời anh em thân tộc đến dự ngày cha mẹ mình mất(1).”
Bên cạnh việc cúng giỗ tổ tiên ở từng gia đình, dòng họ, người Việt Nam còn thờ cúng tổ tiên của cả dân tộc, đó chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Dân tộc ta có câu:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Đối với dân tộc ta, dù là người Kinh hay đồng bào các dân tộc ít người, ở miền xuôi hay miền ngược cùng có chung ngày giỗ tổ. Chúng ta quen gọi nhau hai chữ “đồng bào”, nghĩa là con cháu cùng chung trong một bọc. Ý nghĩa thiêng liêng tổ quốc còn bao hàm tổ tông, huyết thống trong gia đình, gia tộc. Sau này cụ Phan Bội Châu trong Quốc sử khảo có viết: “Nước là cái nhà to, nhà là cái nước nhỏ để chỉ rõ mối quan hệ nhà và nước, nước và nhà.” Tổ quốc theo quan niệm của người Việt cùng với lãnh thổ, chủ quyền, còn có một không gian thiêng liêng để thờ tự. Tại gia đình đó là bàn thờ ông bà, cha mẹ, tại gia tộc đó là nhà thờ họ, còn đối với tổ tiên của cả nước, không gian thiêng liêng đó chính là ngọn núi Lĩnh, đền Hùng.
Cho đến ngày nay, đền Hùng đã trở thành chốn “đi về” của nhiều con dân đất Việt, đặc biệt vào ngày giỗ tổ, nhân dân khắp nơi lại nô nức kéo nhau về để được gặp lại “tổ”, để cầu phúc, cầu bình an, và cũng là một phần để tưởng nhớ những con người đã “có công dựng nước”, khai mở bờ cõi, hình thành nên một dân tộc trường tồn, dù đã trải qua bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc.
Cùng với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng cũng là một tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt Nam. Ở nhiều làng quê Việt Nam đều có đình thờ Thành Hoàng làng. Tục thờ Thành Hoàng làng và ngôi đình làng là đặc điểm độc đáo của làng quê Việt Nam. Thành Hoàng làng được thờ trong các đình làng có thể là các vị thần linh hoặc là những nhân vật kiệt xuất có nhiều công lao to lớn như những ông tổ làng nghề hoặc anh hùng dân tộc có công “khai công lập quốc”, chống giặc ngoại xâm. Ngoài ra, người Việt còn thờ các thần như thần bếp, thần thổ công…
Thành Hoàng là một phạm trù thần linh, có nhiệm vụ bảo hộ cho thành trì của chế độ phong kiến trung ương tập quyền của Trung Quốc, được du nhập vào nước ta có thể là từ đời nhà Đường bên Trung Hoa và được tiếp tục phát triển trong các triều đại độc lập của nước ta sau này, và được thể chế hóa theo tín ngưỡng quen thuộc của người Việt.
Phong thần là một việc làm diễn ra thường xuyên của các triều đại phong kiến Việt Nam. Phong thần là phong bách thần, trong bách thần có nhiều loại thần, một trong những loại thần đó có Thành Hoàng.
Như vậy, theo tục lệ xưa, các đời vua thường phong các vị Thành Hoàng thành ba bậc: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, tùy theo sự tích và công trạng của các vị thần đối với nước, với dân, với làng xã. Các vị thần cũng được xét đưa từ thứ vị nọ lên thứ vị kia, nếu trong thời gian cai quản các vị này đã phù hộ, giúp đỡ được nhiều cho đời sống vật chất và tâm linh của dân chúng. Việc thăng phong các vị Thành Hoàng căn cứ vào sớ tâu của làng xã về công trạng của các vị thần. Sớ này phải nộp về triều đình trong một thời gian quy định. Mỗi lần thăng phong triều đình đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó trong hòm sắc thờ ở hậu cung đình làng.
Tại kinh thành, có miếu thờ Thành Hoàng trong cả nước, các tỉnh có miếu thờ Thành Hoàng, nhưng ở các vùng nông thôn Việt Nam không có thành trì mà vẫn có miếu để thờ Thành Hoàng, đó chính là Thành Hoàng làng.
Ngoài những tín ngưỡng dân gian điển hình kể trên, trong sinh hoạt thường nhật của mình, tùy ở mỗi một vùng quê khác nhau, dựa vào hoàn cảnh địa lý, tập quán riêng biệt mà xuất hiện nhiều tín ngưỡng dân gian khác nhau, tạo nên nét đặc trưng của các vùng miền trải dài trên mảnh đất hình chữ S thân thương.
3. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Ở Việt Nam, đa phần các nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian, đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Nội hàm của tín ngưỡng thờ Mẫu được dùng để biểu thị sự tôn vinh một nhân vật nào đó, hay có thể đồng nhất với việc thờ các vị nữ thần hiển linh được tôn phong là Mẫu như: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu…
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn với tên gọi là Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Đây là hình thức thờ cúng những vị Mẫu cai quản một lĩnh vực trong vũ trụ.
Vậy thờ Mẫu là loại hình gì? Đã có nhiều câu trả lời khác nhau cho câu hỏi này. Hiện nay, chưa có cách đánh giá thống nhất về tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng cơ bản có bốn loại ý kiến đánh giá về thờ Mẫu: loại thứ nhất, xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai; loại thứ hai, xem thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian; loại thứ ba xem thờ Mẫu vừa là tín ngưỡng vừa là tập tục truyền thống; loại thứ tư xem thờ Mẫu là một “đạo” nhưng “đạo” là con đường, cách thức.
Theo quan điểm của tác giả và quan niệm được nhiều người thừa nhận và phổ biến thì thờ Mẫu vẫn được coi là một tín ngưỡng dân gian với những lý do cơ bản sau: một là, thờ Mẫu được hình thành trong chế độ mẫu hệ, nó bắt nguồn từ tục thờ nữ thần; hai là, thờ Mẫu thiếu những tiêu chí cơ bản để cấu thành một tôn giáo như sáng thế luận, giáo luật, giáo lý, giáo hội, hệ thống tổ chức… theo nghĩa đầy đủ của nó; ba là, trong thờ Mẫu yếu tố niềm tin còn dựa vào sự cảm nhận của chủ thể, chưa mang tính hệ thống; bốn là, trong các văn bản pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 38 tổ chức, hệ phái tôn giáo và 1 pháp môn tu hành thuộc 13 tôn giáo, trong đó có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, không có tôn giáo nào là thờ Mẫu.
Với những lý do trên, trong cuốn sách này tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ “tín ngưỡng thờ Mẫu” trong tất cả các chương, các tiết và các phần lập luận cũng như đưa ra các dẫn chứng của mình.
Mẫu là từ Hán – Việt, còn thuần Việt là Mẹ, Mụ. Nghĩa ban đầu Mẫu (mẹ) đều chỉ người phụ nữ sinh ra con. Mẫu (mẹ) còn có ý nghĩa tôn vinh, tôn xưng như Mẫu nghi thiên hạ, Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn…
Mẫu hay mẹ ở ngôi vị thượng đẳng, được người dân Việt tôn xưng là Thánh Mẫu ở trong hệ thống tín ngưỡng đa thần của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu là niềm tin về Mẫu (mẹ), với hình tượng Mẫu được thờ ở phủ, điện, miếu, am để tín đồ tôn vinh, hương khói, cầu nguyện. Mẫu là biểu tượng của niềm tin, hàm chứa các đặc điểm nhân từ, linh thiêng, sáng tạo, huyền bí, nhiều phép thuật, cứu dân, cứu nước. Nói rộng ra, Mẫu là đối tượng mang lại nhiều điều tốt đẹp, hạnh phúc, an lành cho tín đồ và con dân; đồng thời cũng giúp trừ khử, xua đuổi những đối tượng gây ra những bi kịch, những đau khổ cho con người.
Xuất phát từ quan niệm này, tín ngưỡng thờ Mẫu như là con đường dẫn đến hạnh phúc của con người, và hướng con người đến những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Có rất nhiều nữ thần trong thần thoại, trong truyền thuyết và có rất nhiều đền, miếu thờ phụng nữ thần, nhưng những nữ thần được tôn vinh là bậc Thánh – Thánh Mẫu thì lại ít. Tiêu biểu chỉ có: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thiên Yana…
Như vậy, có thể hiểu: Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ nữ thần (nhưng không phải tất cả nữ thần đều là Mẫu), là một bộ phận của ý thức xã hội, được hình thành từ chế độ thị tộc mẫu hệ, tôn vinh những người phụ nữ có công với nước, với cộng đồng, tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội làm Thánh mẫu, Vương mẫu… và qua đó, người ta gửi gắm niềm tin vào sự che chở, giúp đỡ của các lực lượng siêu nhiên thuộc nữ thần.
II. NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu
Theo quan điểm Mác-xít thì tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng lịch sử xã hội, là một bộ phận của ý thức xã hội. Cho nên, nó có quy luật hình thành, tồn tại và phát triển riêng, được nảy sinh trên cơ sở kinh tế – xã hội nhất định, chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Chúng ta đã biết, cho đến thời trung kỳ đồ đá cũ mới bắt đầu xuất hiện nghi lễ mai táng người chết của người Neanderthal. Lúc này, mầm mống của tôn giáo cũng xuất hiện và nó chỉ xuất hiện khi con người bắt đầu biết quan sát thế giới xung quanh. Thời kỳ này, ý thức về tổ tiên là một yếu tố của ý thức công xã nguyên thủy, phản ánh sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên. Từ đó, nảy sinh ra hàng loạt các hình thái đặc biệt của tôn giáo nguyên thủy như sùng bái tự nhiên, ma thuật, chủ nghĩa Tô tem. Vì thế, để tìm hiểu nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu chúng ta phải xem xét ở nhiều góc độ khác nhau.
* Dưới góc độ dân tộc học
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa và có thể là một trong những tín ngưỡng sớm nhất của người Việt trước khi du nhập tam giáo: Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Cho tới nay, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta chưa biết chính xác xuất hiện từ khi nào, nhưng có ý kiến cho rằng: người ta tin mẹ thần linh này đã xuất hiện từ buổi hồng hoang, hay ít nhất là từ lúc người Việt tiến hành khai thác trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Ở Việt Nam, đã có bằng chứng về sự tồn tại của chế độ mẫu hệ trong văn hóa Bắc Sơn, thuộc sơ kỳ đồ đá mới, niên đại khoảng 6.000 năm trước công nguyên, với các di chỉ được phát hiện ở Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Ninh Bình, Quảng Bình…
Địa bàn phân bố của văn hóa Bắc Sơn cũng chính là địa bàn xuất hiện những dấu tích người vượn và người hiện đại cổ xưa nhất trên đất nước ta, là địa bàn hình thành nhiều nền văn hóa lớn, nối tiếp nhau trong thời kỳ tiền sử. Trước văn hóa Bắc Sơn, miền núi Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và miền núi Đông Bắc đã có văn hóa Sơn Vi thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, niên đại khoảng 20.000 năm trước công nguyên; văn hóa Hòa Bình thuộc sơ kỳ đồ đá mới, niên đại khoảng 8.000 năm trước công nguyên. Các di chỉ văn hóa Bắc Sơn cho thấy các cư dân thời kỳ đó đã biết làm nông nghiệp, biết chế tác đồ gốm, và quần cư thành các công xã thị tộc mẫu hệ.
Chế độ mẫu hệ cũng để lại dấu tích trong truyền thuyết họ Hồng Bàng về sự hình thành dân tộc Việt và nhà nước Văn Lang. Bóc tách các lớp vỏ phong kiến được khoác lên truyền thuyết và huyền thoại, hoàn toàn không khó để thấy rằng trước thời đại Hùng Vương, người Lạc Việt có thể vẫn còn theo chế độ mẫu hệ. Trước hết, huyết thống của Lạc Long Quân được tính theo dòng mẹ. Cho nên mới có chuyện Lạc Long Quân, vốn là cháu ngoại của vua Động Đình Quân tức Thần Long hay Rồng Thần, cai quản vùng hồ Động Đình ở phía Nam Trường Giang, nói với Âu Cơ: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên…”. Kế đó, tất cả các vị vua huyền thoại của thời lập quốc, từ Kinh Dương Vương, Lộc Tục đến Lạc Long Quân, Sùng Lãm và Hùng Vương, đều được lên ngôi trị vì trên địa bàn của mẹ mình ở phương Nam.
Đoạn cuối truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ còn cho biết rằng khi chia tay, chỉ có năm mươi người con trai theo mẹ Âu Cơ mới được ở lại, và một người được lập làm vua. Vua Hùng thứ nhất chính là người con trai cả đi theo mẹ; trong khi năm mươi người con trai theo cha Lạc Long Quân thì phải ra đi (xuống biển).
Ngày nay, chúng ta đã biết chủ nhân của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước đầu tiên và nhà nước đầu tiên ở Việt Nam cũng như Đông Nam Á chính là cư dân Việt – Mường, tổ tiên chung của người Việt và người Mường. Dựa vào các kết quả khảo cổ học, dân tộc học và truyền thuyết, chúng ta thấy rằng có cơ sở để đặt ra giả thuyết: trong giai đoạn đầu từ khi nền nông nghiệp lúa nước ra đời (khoảng hơn 2.000 năm trước công nguyên) cho đến khi nhà nước Văn Lang thành lập (khoảng 700 năm trước công nguyên), cư dân Việt – Mường là một cộng đồng mẫu hệ. Giả thuyết này hoàn toàn không mâu thuẫn với những gì lịch sử đã mô tả về chế độ phụ hệ của con cháu cư dân Âu Lạc dưới thời Bắc thuộc, vì chế độ phụ hệ đó có thể chỉ là kết quả của giao lưu, tiếp biến văn hóa về sau giữa văn hóa Việt – Mường với văn hóa Tày – Thái và văn hóa của tộc người Hán.
Nếu bắt đầu tính từ nhà nước Âu Lạc sau khi nhà Triệu xâm lược nước ta và cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, cùng với sự cai trị của các triều đại phong kiến Trung Hoa thì chế độ mẫu hệ dần bị “đồng hóa” theo chế độ phụ hệ của người phương Bắc. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ Bắc thuộc, người phụ nữ vẫn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động xã hội, điều này thể hiện rõ ở các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 – 43), Bà Triệu (246) chống quân xâm lược phương Bắc. Những thế kỷ sau, dưới sự cai trị của các triều đại phong kiến Trung Hoa, vai trò của nữ giới mất dần, nam giới giữ vai trò tuyệt đối trong các hoạt động xã hội, xã hội người Việt chuyển dần sang chế độ phụ hệ; do đó các cuộc khởi nghĩa của người Việt từ đó về sau đều do nam giới lãnh đạo. Người phụ nữ chỉ có vai trò “giữ lửa” trong gia đình và đặc biệt, vai trò đó chỉ hình thành khi đã kết hôn.
Trải qua một thời gian dài, xã hội Việt cổ vận hành theo chế độ mẫu hệ, cho nên người mẹ có vai trò rất quan trọng không chỉ ở trong gia đình và ở cả các hoạt động hàng ngày của thị tộc, không chỉ ở trong đời sống vật chất mà cả ở đời sống tinh thần. Bởi lẽ, ngay cả trong xã hội mẫu hệ hay phụ hệ, người phụ nữ đều giữ chức năng sinh sản, duy trì nòi giống và tạo ra lực lượng lao động chính cho xã hội.
Xét ở góc độ một đơn vị kinh tế, dưới chế độ mẫu hệ, người phụ nữ đóng vai trò chủ chốt trong công việc trồng trọt, chăn nuôi và cũng là người nắm toàn bộ kinh tế của gia đình. Do vậy, người phụ nữ không những trở thành trung tâm của đời sống vật chất mà còn là trung tâm của đời sống tinh thần. Từ đó dẫn đến ý thức tôn vinh người phụ nữ – người mẹ không chỉ trong phạm vi gia đình mà cả ở trong cả phạm vị thị tộc.
Người mẹ còn được thần thánh hóa và được tôn vinh trong đời sống tâm linh. Hiện tượng này không chỉ có ở dân tộc ta mà còn xuất hiện ở nhiều dân tộc và tôn giáo trên thế giới, có thể kể đến: Phật bà Quan Âm trong đạo Phật, Đức mẹ trong đạo Công giáo, các nữ thần trong thần thoại Hy Lạp, La Mã cổ đại…
* Dưới góc độ văn hóa
Từ xa xưa, con người đã có ý thức về sự sinh sôi nảy nở. Người mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng che chở cho con, bảo vệ người con trước những tác động của ngoại cảnh. Vì vậy, người mẹ đã trở thành biểu tượng đầu tiên cho sự sinh tồn của giống nòi.
Dân tộc Việt Nam cũng như nhiều dân tộc trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới, kế sinh nhai chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi, vì thế có mối quan hệ khắng khít với thiên nhiên như: đất, nước, mây, mưa, sấm, chớp… Do trình độ nhận thức và tri thức thời đó còn thấp, con người không lý giải được các hiện tượng tự nhiên, nên dẫn đến việc sùng bái thiên nhiên, từ đó tín ngưỡng đa thần xuất hiện với quan điểm “vạn vật hữu linh”.
Ngoài các hiện tượng tự nhiên, người Việt cổ còn tôn thờ những yếu tố có ảnh hưởng đến nghề trồng trọt, chăn nuôi, đến sự sinh sôi nảy nở, tiêu biểu là tín ngưỡng phồn thực. Các dân tộc nông nghiệp khác sống thiên về du canh, du cư, cuộc sống nay đây, mai đó, chỉ có trời mới chi phối cuộc sống của họ, còn các yếu tố thiên nhiên khác đóng vai trò thứ yếu. Chính vì vậy, họ theo tín ngưỡng độc thần.
Đối với cư dân trồng lúa nước như Việt Nam, đất chính là biểu tượng tiêu biểu nhất cho sự sinh tồn và sau đó là đến cây. Bởi lẽ, với mắt quan sát thông thường, đất nuôi dưỡng cây, cây từ đất mà mọc thành, cây cho mầm, rễ, quả để con người sinh sống, cây cho cành cho rễ chằng chịt để con người treo mình trên đó tránh thú dữ qua đêm, qua sự nguy hiểm. Tiếp đến là nước. Nước giúp vạn vật sinh sôi, nuôi dưỡng lúa ngô, hoa màu, nuôi dưỡng sự sống của con người. Hơn ai hết, đối với dân tộc trồng trọt thì việc quan trọng hàng đầu là phải “trông đất”, “trông mưa”. Đất, cây, nước cũng như mẹ, sinh dưỡng,
nuôi nấng con cái, quyết định trực tiếp đến sự sinh tồn của con người.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời ở Việt Nam còn xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước điển hình, thờ Mẫu nảy nở trên một miền đất nhiều đời trồng cây lúa nước. Đối với dân cư nông nghiệp thì hình ảnh người mẹ càng quan trọng, từ việc hái lượm người mẹ đã tìm ra hạt lúa để từ đó trở thành hồn lúa. Trong các loại cây trồng, lúa là cây duy nhất trong thời kỳ làm đòng được các tộc người ở Đông Dương gọi là có Chửa (Việt) = Bun (Cơ Ho) = Mtian (Gia Rai), như người mẹ; lúa là cây duy nhất được coi là có Hồn (Việt) = Soan (Cơ Ho)…
Đối với nền nông nghiệp lúa nước thì đất và nước là hai đối tượng rất quan trọng. Việt Nam là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, có đồi núi, đồng bằng, có sông có biển, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm… nên có điều kiện để nông nghiệp lúa nước được phát triển. Do đó khái niệm đất, nước được định hướng và gắn chặt với nữ thần (mẹ), với tộc người, với quê hương xứ sở.
Từ thực tiễn cuộc sống, những dân tộc sống bằng nghề trồng trọt như người Việt cổ đã nhận thức được giữa đất, nước, cây và mẹ có sự tương đồng về “tính âm”, từ đó cách gọi là Mẹ Cây, Mẹ Đất, mẹ nước được hình thành. Nhưng dân gian cho rằng mưa là do trời quyết định nên mẹ trời được tôn vinh. Mẹ là biểu tượng, là nguồn cội của sinh sôi, nảy nở. Từ nhận thức đó, trong tâm thức của mình, người Việt cổ đã thần thánh hóa mẹ, coi mẹ như một vị thần.
Tín ngưỡng thờ “mẹ” bắt nguồn từ thời kỳ mẫu hệ, nhưng với người Việt, người phụ nữ có vị trí đặc biệt hơn so với các nơi khác. Người phụ nữ đảm nhận hầu hết những công việc từ nội trợ, đồng áng đến buôn bán lo chi – tiêu trong gia đình… Cũng chính từ nơi này, để khai thác triệt để tính đa dạng của địa hình và môi trường sinh thái, người dân ngoài việc sản xuất nông nghiệp là chính, còn biết làm những ngành nghề kinh tế khác. Từ rất sớm, ở đồng bằng Bắc Bộ đã ra đời những làng nghề truyền thống và cũng chính nhờ đó xuất hiện các mẹ là tổ sư các ngành nghề.
* Dưới góc độ tư tưởng
Từ xa xưa cho tới nay, trong quá trình phát triển “năng lực” trí tuệ, con người thường “ngạc nhiên” trước những hiện tượng diễn ra xung quanh mình. Từ đó, con người luôn “suy tư” về nguồn gốc của vũ trụ, về những hiện tượng tự nhiên xảy ra xung quanh và ngay cả nguồn gốc cũng như sự tồn tại của chính bản thân con người.
Có nhiều lý do thúc đẩy, đưa con người đến với những “suy tư” mang tính triết lý, rồi được tổng hợp, nâng cao thành những cách lý giải sự vật, những niềm tin trên cơ sở những nhận thức đã đựợc xác lập. Điều đó thể hiện nỗ lực tư duy của con người để nhận thức, lý giải thế giới tự nhiên, con người và xã hội, khởi thủy từ ba nguồn chính đó là: sự ngạc nhiên, sự hoài nghi (suy tư), và sự thất bại của con người trong chính những nỗ lực ấy.
Cũng như các dân tộc khác trên thế giới, người Việt cổ đã có những quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh. Căn cứ vào các thần thoại và các tài liệu khảo cổ học, dân tộc học, các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Việt Nam đã chứng minh rằng, ngay từ xa xưa, các dân tộc Đông Á, trong đó có người Việt cổ đã hình thành tư tưởng “lưỡng phân”. Đó chính là tiền đề để hình thành triết lý âm – dương sau này.
Các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận rằng “quan niệm về âm – dương có nguồn gốc phương Nam”. Phương Nam ở đây bao gồm vùng Nam Trung Hoa, từ sông Dương Tử trở xuống và vùng Việt Nam (khu vực phía Bắc). Trong quá trình phát triển, nước Trung Hoa trải qua hai thời kỳ:
– Thứ nhất, thời kỳ “Đông tiến”, đây là thời kỳ Trung Hoa mở rộng từ thượng lưu (phía Tây) xuống hạ lưu (phía Đông) của sông Hoàng Hà;
– Thứ hai, thời kỳ “Nam tiến”, là thời kỳ mở rộng từ lưu vực sông Hoàng Hà (phía Bắc) xuống phía Nam sông Dương Tử.
Trong quá trình Nam tiến, người Hán đã tiếp thu triết lý âm – dương của các cư dân phương Nam, rồi phát triển, hệ thống hóa triết lý đó bằng khả năng phân tích của người du mục, làm cho triết lý âm – dương đạt đến sự hoàn thiện và mang ảnh hưởng của nó tác động trở lại cư dân phương Nam.
Cư dân phương Nam sinh sống bằng nông nghiệp, nên quan tâm số một của họ là sự sinh sôi nảy nở của cây trái và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha và mẹ, nam và nữ; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do đất và trời – “đất sinh, trời dưỡng”. Chính vì thế mà hai cặp “mẹ – cha”, “đất – trời” là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý âm – dương. Về mặt ngôn ngữ học, “âm – dương” là phát âm của “yin yan” trong tiếng Hán, nhưng chính tiếng Hán để chỉ khái niệm âm – dương lại vay mượn từ các ngôn ngữ phương Nam trước đây.
Ví dụ, so sánh yang với giàng (trong tiếng Mường), Yang Sri (thần lúa), Yang Dak (thần nước), Yang Lon (thần đất) (trong tiếng của nhiều dân tộc Tây Nguyên). So sánh yin với yana (tiếng Chàm cổ, ví dụ Thiên Yana = mẹ trời), ina (tiếng Chàm hiện đại), inang (tiếng Indonesia), nạ (tiếng Việt cổ, ví dụ: nạ ròng = người đàn bà có con, hay tục ngữ Việt Nam: “Con thì na, cá thì nước”), … thì thấy rõ điều đó.
Như vậy, chính từ quan niệm âm – dương với hai cặp “mẹ – cha” và “đất – trời” này, người ta đã mở rộng ra nhiều cặp đối lập lưỡng hợp phổ biến khác: nước – lửa, thấp – cao, nữ – nam, đêm – ngày… Trong đó, đối với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước như Việt Nam, đất giữ vai trò đặc biệt quan trọng (như đã giải thích ở phía trên). Đất và mẹ có cùng sự tương đồng là tính âm. Mẹ chính là đất và ngược lại đất cũng chính là mẹ (người Việt hay có câu “đất mẹ” có lẽ là vì như vậy). Vì thế, tín ngưỡng thờ thần đất và thờ mẹ của người Việt cổ có liên quan đến tư duy lưỡng hợp của người nguyên thủy và triết lý âm – dương sau này.
2. Quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu
* Xuất phát điểm
Người Việt xưa kia sống nhờ vào thiên nhiên, nhưng cũng phải chống chọi rất nhiều với thiên nhiên. Do đó, con người luôn cầu mong sự phù hộ, giúp đỡ của các “Mẹ” thiên nhiên và các Mẫu có nguồn gốc nhiên thần cũng lần lượt ra đời.
Như đã trình bày ở trên, đất là nơi bắt đầu cho sự sống của con người, nên tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc từ thờ thần đất. Do đó, quá trình từ sự tín vọng về Mẹ Đất trở thành Mẫu Địa là một quá trình cơ bản ban đầu trong tâm thức của người Việt cổ.
Như vậy, đất chính là nguồn gốc đầu tiên cho sự sinh sôi nảy nở, là nơi cư trú và sinh sống của con người, do đó lẽ tất nhiên yếu tố đất được con người quan tâm đến đầu tiên. Dân tộc Việt Nam cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới, đặc biệt các dân tộc vùng Đông Nam Á, có nhiều điểm tương đồng về khí hậu, thời tiết và phương thức sinh sống, tồn tại, trong đó điển hình là nghề trồng trọt, chăn nuôi, vì thế hình thành nhiều mối quan hệ đan xen.
Đối với trồng trọt, thời tiết giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì thế người Việt mới có câu: “Trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa trông gió, trông ngày trông đêm…” Như vậy, trời đất là hai yếu tố cơ bản đầu tiên tác động trực tiếp đến đời sống của con người.
Trời là đối tượng được ngưỡng vọng của hầu hết các dân tộc trên thế giới. Trời không chỉ chi phối nghề nông mà còn ảnh hưởng đến sự sinh tồn của con người. Do đó, trời ngự trị thường trực trong tâm thức của con người, cho nên dẫn đến hiện tượng: cầu trời, nhờ trời, kêu trời, kính trời…
Tuy nhiên, trời thì ở cao và xa nên “kêu trời trời không thấu”, trái lại đất lại gần ngay dưới chân người, rất gần gũi, nâng bước chân con người, cho cây trái mọc tốt tươi, là nơi cư trú, sinh sống, do đó đất gần con người và thân thiết với con người hơn trời. Đất sản sinh, nuôi dưỡng cây trái, lúa ngô, hoa màu, tạo lương thực nuôi sống con người. Với cư dân nông nghiệp “nhờ đất”, “cậy đất” để sinh sống và đất cũng là nơi “an nghỉ” cuối cùng, “sống nhờ đất chết rồi trở về với đất”. Đất cũng như mẹ, sinh con, nuôi con, giúp con trưởng thành, quyết định trực tiếp tới sự sinh tồn của con. Từ những quan điểm đó, cư dân nông nghiệp đã tìm ra những điểm tương đồng về “tính âm” giữa đất và mẹ, hai tiếng “Mẹ Đất” cũng từ đó mà ra đời.
Mẹ Đất là biểu tượng của sự sống, của sự sinh sôi nảy nở và ngay cả khi chết đi cũng trở về với đất, trở về bên mẹ. Từ sự nhận thức đó, trong tâm thức của người Việt cổ đã “thần thánh” hóa mẹ, từ người mẹ cụ thể thành người mẹ tâm linh, coi Mẹ Đất như một vị thần.
Cùng với đất, cây chính là cái đầu tiên đảm bảo cho sự sinh tồn của con người, nên ý thức về Mẹ Cây của con người cũng dần được hình thành. Ở nước ta, cây cho rễ nhiều nhất là cây đa, cây si. Rễ của các cây được ví như bàn tay người mẹ bện thành lưới võng, thành những cái nôi ru đưa, che chở cho con người ngày xưa. Do đó, người Việt thờ “Mẹ Cây” hay còn gọi là Mẫu Thượng Ngàn.
Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt khởi đầu gắn với con người từ khi cư trú ở những vùng rừng núi. Với hình ảnh đầu tiên là Mẫu Địa, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Sơn Lâm. Trong quá trình di cư xuống những vùng thấp hơn, tín ngưỡng thờ mẫu dần dần lan tỏa xuống những vùng đồng bằng. Vì thế, trong các buổi hầu bóng tái hiện Mẫu Thượng Ngàn, thường là những bà người Dao, Tày, Nùng… Và không gian thiêng liêng thờ Mẫu khi ấy chưa phải là “phủ”, mà chỉ là những ngôi miếu có quy mô nhỏ.
Mẫu Thoải (mẹ của lực lượng sáng tạo ra sông nước) có rất nhiều dị bản, huyền tích khác nhau. Nhưng tựu chung đó là “Mẫu” trị vì sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương (Thần Long).
Khi con người lênh đênh trên những chiếc thuyền, bè để tiến về xuôi, thì người mẹ nâng đỡ lúc này lại là nước, ý thức về Mẫu Thoải dần được hình thành. Khi xuống đồng bằng định cư, sản xuất nông nghiệp lúa nước, chế ngự sông nước, biển cả, thì hình ảnh Mẫu Địa, Mẫu Thủy dần được hình thành tham dự vào “hàng Ngũ Mẫu” Các huyền thoại, sự tích về Mẫu Thoải đến nay chưa được rõ ràng vì mỗi nơi hiểu theo một cách, tuy nhiên, lại có những điểm chung cơ bản. Mẫu Thoải có nguồn gốc thủy thần, ít nhiều gắn với Lạc Long Quân, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên, là những nhân vật nửa huyền thoại, nửa lịch sử là thủy tổ tộc người Việt chúng ta. Hiện nay, tại Tuyên Quang người dân thờ Mẫu Thoải tại đền Dùm, thuộc Yên Sơn, trên hữu ngạn sông Lô.
Tín ngưỡng xuất phát từ thực tế cuộc sống, con người đặt ra những lực lượng thần bí để tôn vinh, tôn thờ cho phù hợp với cuộc sống của mình. Và thế là Mẹ Cây, Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Trời, hay gọi theo tiếng Hán là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thiên đã ra đời. Đó là hệ thống Mẫu cơ bản đầu tiên của tín ngưỡng thờ Mẫu. Như vậy, Mẫu là theo tiếng Hán (có thể xuất hiện kể từ khi chế độ quan lại được thiết lập ở nước ta) tiếng Việt gọi là mạ, mệ, mẹ. Tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển chủ yếu ở khu vực Bắc Bộ.
* Thời kỳ Bắc thuộc
Từ sau thất bại của khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đất nước chính thức bước vào thời kỳ Bắc thuộc với gần một ngàn năm đô hộ. Dưới sự cai trị hết sức hà khắc của các triều đại phong kiến phương Bắc, ngoài việc phản kháng lại các thế lực bạo tàn, một điều chắc chắn, người dân Việt không thể không cầu vọng đến các thế lực thần linh, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của người mẹ tâm linh – Mẫu.
Đây là thời kỳ có nhiều truyền thuyết liên quan đến mẹ tâm linh, đặc biệt dựa trên những cội nguồn sẵn có (như đã trình bày ở trên), vai trò của người mẹ trong chế độ mẫu hệ tiếp tục được phát huy và được đưa vào trong đời sống tinh thần hàng ngày. Do đó, thời kỳ này đã xuất hiện nhiều chuyện kể hoặc những truyền thuyết về mẹ.
Nhưng phải khẳng định rằng, thời kỳ này, các truyền thuyết về mẹ tâm linh xuất hiện mang tính độc lập, chưa có sự liên kết hay các mối quan hệ ràng buộc với nhau. Có thể do một phần nhận thức xã hội, hay một phần do sự trói buộc của các thế lực cai trị, các bà mẹ tâm linh xuất hiện chưa thể hiện rõ quyền năng cũng như ý thức phản kháng rõ rệt. Ở thời kỳ này, người dân dựa vào mẹ tâm linh chủ yếu là an ủi về mặt tinh thần cũng như đáp ứng các yêu cầu của từng làng, xã riêng lẻ.
Căn cứ vào các câu chuyện kể, nhân vật lịch sử tiêu biểu, căn cứ trên một mô thức tư duy được phát triển từ người mẹ tâm linh và được dân gian tôn vinh, những người mẹ mang yếu tố nửa nhiên thần, nửa nhân thần. Những người mẹ mang yếu tố nhân thần đã bắt đầu xuất hiện, như: Mẹ Âu Cơ (sau này tôn vinh là Quốc Mẫu), Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân, Tứ vị Hồng Nương, Mẫu Man Nương… Những thần tích, truyền thuyết và các câu chuyện kể liên quan đến các Mẫu trong giai đoạn này, tác giả sẽ thể hiện rõ ở phần Phụ lục của cuốn sách.
* Thời kỳ độc lập tự chủ
Sau thời kỳ Bắc thuộc kéo dài gần một ngàn năm, đến năm 938, khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi của đất nước, nước ta chính thức bước vào thời kỳ độc lập tự chủ. Ngoài việc xác lập lại nền độc lập của đất nước, đây cũng là thời kỳ người Việt phục hưng các giá trị văn hóa của dân tộc, trong đó có các tín ngưỡng dân gian, điển hình là niềm tin về mẹ tâm linh. Ngoài những đối tượng đã được thờ phụng trước đó, thời kỳ này còn phát triển nhiều truyền thuyết liên quan, thậm chí xuất hiện nhiều truyền thuyết mới và nhiều nhân vật mới.
Với ảnh hưởng của chế độ quan phương cũng như vai trò của nam giới đã hoàn toàn thay thế nữ giới, vai trò của người mẹ tâm linh cũng đã có sự thay đổi. Trong các câu chuyện kể, truyền thuyết về mẹ tâm linh (Mẫu)(1) trong thời kỳ này đã “nhạt” dần đi tính huyền bí, trái lại, tính đời thường lại được phát triển đậm nét. Mẫu ngoài việc xuất hiện trong đời sống thường nhật của người dân (đặc biệt là lớp người bình dân) đã tham gia vào việc bảo vệ giang sơn, giữ yên bờ cõi của đất nước.
Vấn đề này cũng tương đối dễ hiểu: Thứ nhất, về phương diện nhận thức, trình độ lý luận cũng như sự hiểu biết của con người về các hiện tượng tự nhiên đã được nâng lên rõ rệt, những người có học xuất thân từ dân gian khá nhiều. Thứ hai, cùng với sự phát triển của nhận thức, từ thực tiễn cuộc sống cũng như các chế độ xã hội đã có sự thay đổi, vai trò của người phụ nữ cũng có sự thay đổi theo để thích ứng với thời cuộc. Thứ ba (có lẽ đây là điều quan trọng nhất), các triều đại phong kiến Việt Nam, để bảo vệ và củng cố quyền lực thống trị của mình, ngoài việc chống giặc ngoại xâm thì việc “an dân” cũng là một vấn đề quan trọng không kém. Do đó, việc sắc phong các vị thần có công với dân, với nước, với làng, xã và đời sống của người dân là một việc làm thường xuyên và cần thiết. Trong những nhân vật đó, chắc chắn không thể thiếu vai trò của các Mẫu. Ngoài những Mẫu đã được tôn vinh trước đó (có thể cả nhiên thần và nhân thần) thì những người phụ nữ quyền năng xuất hiện trong giai đoạn này, sau khi mất đi cũng đươc phong thần và lập đền thờ phụng.
Những nhân vật mẫu tiêu biểu thời kỳ này có thể kể đến: Nguyên phi Ỷ Lan (sau này được phong là Thánh Mẫu Ỷ Lan), Thánh Mẫu Liễu Hạnh (một nhân vật được người dân xếp vào hàng “Tứ bất tử” trong tâm thức của người Việt),… Những nhân vật lịch sử này được nhân dân thờ phụng, tôn làm Thánh Mẫu, giữ một vị trí trang trọng trong đời sống tâm linh nói riêng và đời sống tinh thần nói chung của người Việt. Tín ngưỡng này trở nên phổ biến trong đời sống của người dân Bắc Bộ, và có lễ hội thường niên hàng năm tổ chức rất quy mô và linh đình.
Khi tín ngưỡng thờ Mẫu vào miền Trung, tiếp thu thêm việc thờ nữ thần xứ sở Pô Inư Nagar của người Chăm, tín ngưỡng thờ Mẫu này có pha chút Đạo giáo thần tiên, biến thành thờ Thiên Yana, bà mẹ y theo mệnh trời. Riêng ở Huế, ngày xưa cũng có điện thờ Mẹ xứ sở Pô Inư Nagar của người Chăm, sau này được người Việt tiếp thu thành nữ thần Thiên Yana, nơi thờ được đổi thành điện Hòn Chén, hoặc Huệ Nam điện, Thiên Yana được gọi là Bà Chúa Ngọc. Ở Nam Bộ, Mẫu kết hợp với nữ thần Đất của người Khmer Nam Bộ thành Bà Chúa Xứ được thờ ở khắp các làng ấp Nam Bộ, điển hình là miếu thờ Bà chúa Xứ ở Châu Đốc An Giang và điện Bà Đen ở núi Bà Đen tỉnh Tây Ninh.
Ở đây, xin bàn thêm một chút về Mẫu Liễu Hạnh. Vì như đã trình bày ở trên, Mẫu Liễu Hạnh giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Khi Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, không rõ từ khi nào đã trở thành một vị thần chủ đạo của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. “Phủ” trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang ý nghĩa rộng và bao quát, nó ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ. Tuy ra đời sau nhưng Mẫu Liễu Hạnh lại thường được đặt vào vị trí trang trọng nhất trên ban thờ Mẫu Tứ phủ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện đã có nhiều truyền thuyết khác nhau, bà có thể vừa là thiên thần (tiên) vừa là nhân thần đối với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng con, chu du khắp nơi, trừ ác, ban lộc… Mẫu Liễu Hạnh có thể biến thành Mẫu Thiên, có lúc lại đồng nhất với Mẫu Địa và Mẫu Thoải.
Có nhiều truyền thuyết khác nhau về Mẫu Liễu Hạnh nhưng đa phần cho rằng, Mẫu Liễu Hạnh vốn là Công chúa Quỳnh Hoa do đánh vỡ chén ngọc của Ngọc Hoàng Thượng Đế nên bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian và đầu thai vào nhà vợ chồng Lê Thái Công ở Làng An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản), Nam Định (phần tiểu sử của Mẫu và các câu chuyện kể liên quan tác giả sẽ trình bày rõ ở phần Phụ lục của cuốn sách này).
Theo Nguyễn Duy Hinh, một nhà nghiên cứu về Đạo giáo, thì Mẫu Liễu Hạnh không phải giáng tiên, không phải trích tiên, không phải thi tiên mà là Mẫu chăn dắt đàn con. Theo Đạo giáo thì du tiên và giáng tiên không phải là đầu thai mang xác người nên không nằm trong Đạo giáo, chỉ có trích tiên nằm trong dấu ấn của Đạo giáo. Hiện nay, ở đồng bằng Bắc Bộ, Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát thần nữ) là nhân vật linh thiêng, phổ biến của tín ngưỡng thờ Mẫu, nhiều khi được xếp đứng đầu và là biến thể cao nhất trong tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ.
Mẫu Liễu Hạnh ra đời là sản phẩm của lịch sử xã hội Việt Nam, cụ thể hơn đó là giai đoạn phong kiến Việt Nam thời Lê. Bối cảnh lịch sử của đất nước khi Mẫu Liễu Hạnh được sinh ra là: ở đất Vụ Bản giữa không gian các thế lực phong kiến thời Lê (Thanh Hóa), Trần (Nam Định) mà Mẫu đầu thai sinh vào nhà họ Lê, lấy chồng họ Trần, phải chăng đó là tập hợp sức mạnh oai hùng giúp Trần thắng Nguyên, Lê thắng Minh, mà cũng là Phật giáo thời nhà Trần còn Nho giáo thời nhà Lê. Tại sao Mẫu Liễu Hạnh lại xuất hiện trong bối cảnh có lúc xã hội thanh bình, có khi loạn lạc, các thế lực phong kiến Lê – Mạc, Trịnh – Nguyễn phân tranh hai miền Nam – Bắc…
Có thể nói, Mẫu Liễu Hạnh ra đời đã làm hoàn chỉnh hệ thống thờ Tam phủ, Tứ phủ và thể hiện đầy đủ triết lý thờ Mẫu theo vũ trụ quan phương Đông. Từ thờ nữ thần, thờ Mẫu trong quá trình phát triển đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ có sự ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong tín ngưỡng thờ Mẫu thì nơi thờ phụng chính của Thánh Mẫu Liễu Hạnh chỉ gọi là “phủ” như phủ Dầy (Nam Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội) có thể xuất phát từ khi trong xã hội xuất hiện những phủ Chúa, cung Vua thời Trịnh – Nguyễn, còn trước đó không gian thiêng liêng thờ Mẫu chỉ là những ngôi đền, miếu.
Như vậy, từ tiểu sử cho thấy các Mẫu đều xuất hiện sau thế kỷ XV, tức là từ thời nhà Lê. Nếu đúng như vậy, thì thờ Mẫu ra đời sau khi Nho giáo đã thay thế Phật giáo, Đạo giáo, để đáp ứng sự hẫng hụt về tâm linh mà Nho giáo tạo ra. Đặc biệt, với những lý lẽ cương thường và quan điểm trọng nam khinh nữ, Nho giáo đã đẩy người phụ nữ vào cuộc sống hết sức khổ cực, trói buộc người phụ nữ vào những lễ giáo hà khắc. Tuy trải qua nhiều đau khổ, bất công nhưng những người phụ nữ ấy đều giữ được lòng tin, đức hy sinh và tình yêu thương bao la đối với người dân, vì vậy mà họ được nhân dân thờ thành các Mẫu chứ không phải vì họ trải qua một quá trình tu luyện gì đặc biệt.
Sự tín vọng các Mẫu trên đã chứng tỏ thuyết ưu thế của phụ nữ so với nam giới của người Việt. Nhưng, kể từ khi Nho giáo vào Việt Nam, với việc nhấn mạnh vai trò của nam giới thì phụ nữ bị đẩy ra khỏi chính quyền, đẩy ra khỏi văn học chính thống. Nói chung, giới chức cầm quyền và tầng lớp trên của xã hội không còn coi trọng phụ nữ nữa.
Nhưng trên thực tế, trong đời sống của lớp người Việt bình dân thì người phụ nữ vẫn giữ một vị trí đặc biệt. Trong tâm thức của người dân, người mẹ (Mẫu) vẫn được coi là có quyền lực bất khả kháng. Mẹ trở thành biểu tượng thường trực trong mọi thế ứng xử của người Việt. Vì vậy, ở Việt Nam người mẹ được tôn vinh thành riêng một tín ngưỡng – thờ mẹ (Mẫu).
__________
(1) C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 815.
(1) C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Tập 20, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 437 – 438.
(2) V. I. Lênin toàn tập, Tập 2, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 169 – 170.
(3) Theo quan điểm của tác giả.
(4) Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia (2004), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 449.
(1) Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 76.
(1) Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán- Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.283.
(2) Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành Hoàng làng Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, tr. 337.
(1) Đặng Nghiêm Vạn, Sđd, tr. 325.
(2) Nguyễn Đăng Duy (2004), Văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt, Nhà xuất bản Hà Nội, tr. 351.
(1) Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (chủ biên) (2005), Folklore – một số thuật ngữ đương đại, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 273.
(1) Phan Hữu Dật (1999), Một số vấn đề về Dân tộc học Việt Nam, Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 328.
(1) Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt nam, Nhà xuất bản Văn học, tr. 319.
(1) Bắt đầu từ đây tác giả sẽ dùng khái niệm Mẫu để thay thế cho khái niệm mẹ tâm linh, có lẽ ảnh hưởng của Hán học cũng chính thức bắt đầu từ đây (vì từ thời Lý trở đi, Nho giáo đã được sử dụng trong các kỳ thi quan trọng của quốc gia), dù rằng quan điểm này ít nhiều sẽ gặp phải sự phản đối và ý kiến của nhiều học giả nghiên cứu. Riêng về vấn đề xuất phát điểm của tên gọi Mẫu tác giả sẽ có những lý giải ở các cuốn sách sau.
Nguồn: Tín ngưỡng thờ Mẫu trong sinh hoạt tinh thần của người Việt Nam,
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu (Tác giả: TS. Vũ Hồng Vận – TS. Phạm Duy Hoàng) |
BÀI VIẾT CÓ LIÊN QUAN |
1. Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu 2. Các hình thái của tín ngưỡng thờ Mẫu – Phần 1: Không gian thờ cúng 3. Các hình thái của tín ngưỡng thờ Mẫu – Phần 2: Hệ thống thánh thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu 4. Các hình thái của tín ngưỡng thờ Mẫu – Phần 3: Điểm tương đồng và dị biệt trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ 5. Tín ngưỡng thờ Mẫu trong sinh hoạt tinh thần của người Việt Nam —— đang được cập nhật —— |