Nguồn gốc và ý nghĩa các tộc danh ở Việt Nam (Phần 2)

ORIGINS AND MEANINGS OF ETHNIC NAMES IN VIETNAM

LÝ TÙNG HIẾU
(Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TPHCM)

     Người Hoa ở Việt Nam trên thực tế có rất nhiều tên gọi. Xưa kia, người Việt gọi người Hoa là người Ngô, một danh xưng ác cảm hình thành từ thời triều đại nhà Ngô xâm lược và đàn áp cư dân Giao Châu – Quảng Châu (210-280), và được sử dụng đến tận thế kỉ XIX, với chứng tích là bản tuyên ngôn “Bình Ngô đại cáo” do Nguyễn Trãi phụng mệnh Lê Lợi soạn thảo sau khi đánh đuổi giặc Minh (1428), và các mục từ Ngô, nước Ngô, thằng Ngô trong các từ điển của Alexandre de Rhodes (1991, tr.164), Pierre Pigneaux de Béhaine (1999, tr.33, 324), Huình Tịnh Paulus Của (1998, tr.51, 710). Những người Hoa “phản Thanh phục Minh” đến Nam Bộ vào thế kỉ XVII-XVIII thì được gọi là người Minh Hương, tức “hương hỏa nhà Minh”. Ngày nay, con cháu của họ phần nhiều đã trở thành người Việt. Còn những người Hoa mà thời nhà Nguyễn gọi là Đường nhân “người Đường” và hiện nay vẫn còn giữ nguyên ngôn ngữ, văn hóa, ý thức tộc người, thì chủ yếu là con cháu của di dân người Hoa đến Nam Bộ vào thế kỉ XIX-XX. Họ không tự gọi mình là người Trung Quốc, người Hán, người Hoa, mà là Thoòng Dành (tiếng Quảng Đông) hoặc Từng Nán (tiếng Triều Châu), tức là “Đường nhân”, “người Đường”. Nguồn gốc của danh xưng ấy là do vào thời nhà Đường (618-907), người Hán đã lan tràn khắp Lĩnh Nam, đồng hóa cư dân ở đó, rồi từ đó họ mới di dân đến Việt Nam, mang theo ý thức tộc người và tên gọi “Đường nhân”. Không chỉ vậy, do quê quán khác nhau và nhập cư vào những thời điểm khác nhau, người Hoa ở Việt Nam rất không thuần nhất về văn hóa và ngôn ngữ. Từ đó, họ còn có những danh xưng tự gọi căn cứ vào xuất xứ là các địa phương ở duyên hải Giang Nam, Trung Quốc: Quảng/ Quảng Đông, Tiều/ Triều Châu, Phước Kiến/ Phúc Kiến, Hải Nam, Hẹ. Người Việt thì gọi những người Hoa cộng cư là người Tàu, Cắc Chú “Khách Trú”, Quảng “Quảng Đông”, Tiều “Triều Châu”, Hẹ “Hakka, Khách Gia”… Hiện nay, nhà nước và giới khoa học Việt Nam gọi chung tất cả người Hán định cư ở Việt Nam là người Hoa, phân biệt với Hoa kiều là những người Trung Quốc có mặt ở Việt Nam nhưng không nhập tịch Việt Nam.

     Người Khmer có tộc danh tự gọi là KhêmarăɁ, Khmer, được cho là bắt nguồn từ tên gọi của người lập quốc. Theo truyền thuyết địa phương, một ẩn sĩ Ấn Độ tên là Kambu đã đến Chân Lạp kết hôn với nữ thần Mera, nên con cháu của họ được gọi là Kambuja nghĩa là “con cháu của Kambu”, và tên ghép của hai vợ chồng trở thành tên gọi tộc người là Kambu-Mera, KhêmarăɁ, Khmer. Người Khmer ở Nam Bộ cũng được gọi là KhêmarăɁ Krôm, Khmer Krôm, nghĩa là “Khmer Dưới”, biểu thị vùng cư trú của họ là vùng đất thấp ở hạ lưu sông Bassac (Cửu Long). Người Chăm và các tộc người bản địa Đông Nam Bộ thì gọi người Khmer là Kur, có thể bắt nguồn từ tộc danh KhêmarăɁ, Khmer. Người Việt Nam Bộ thì gọi những người Khmer cộng cư là người Thổ, người Miên. Cách gọi người Thổ “thổ dân” bắt nguồn từ cách gọi chung của người Việt đối với những cư dân bản địa trên những địa bàn mà người Việt đến mưu sinh. Do đó, người Tày ở vùng núi Việt Bắc – Đông Bắc, người Thổ ở vùng núi Thanh Hóa – Nghệ An, người Stieng ở Bình Phước, người Khmer ở Nam Bộ… đều được người Việt gọi là người Thổ. Còn tộc danh người Miên bắt nguồn từ quốc danh Cao Miên mà nhà Nguyễn dùng để gọi Chân Lạp, bắt nguồn từ tộc danh tự gọi KhêmarăɁ, Khmer của người Khmer. Quốc danh Cao Miên về sau do kị húy vua Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông), nên đổi gọi là Cao Man hoặc Cao Mên. Trước đó, người Việt gọi đất nước của người Khmer là Chân Lạp, bắt nguồn từ quốc danh Chênla; hoặc Giản Phố Trại, Đông Phố, là những hình thức phiên âm sang Hán Việt của quốc danh Kambuja.

    Ngoài những tộc danh không rõ nghĩa, các tộc danh còn lại của các tộc người thiểu số Việt Nam có thể chia thành bốn loại:

     (1) Những tộc danh biểu thị tư cách con người: Mơnui “người” – tên tự gọi của người Katu (Viện Dân tộc học, 1984, tr.153); Kòn cau “con-người” – tộc danh tự xưng của người Kơho, người Mạ (Tạ Văn Thông, 1993, tr.23, 24)… Thông điệp văn hóa của những tộc danh loại này là sự khẳng định tư cách con người của tộc người ấy, phân biệt với giới tự nhiên, với các loài động vật. Điều đó cũng tương tự tộc danh tự gọi Mol, Muan của người Mường.

     (2) Những tộc danh biểu thị địa vực cư trú hoặc xuất xứ của tộc người: Xinh Mun “người ở núi” (Viện Dân tộc học, 1978, tr.118); Chứt “núi đá” (Nguyễn Văn Lợi, 1993a, tr.10); Nguồn “nguồn Cơ Sa, nguồn Kim Linh” (Võ Xuân Trang cb, 2008); Pa koh “phía núi” (Viện Dân tộc học, 1984, tr.163); Làc “rừng thưa” (Tạ Văn Thông, 1993, tr.23, 24)… Tộc danh của người Jrai (hoặc Jarai) được cho là bắt nguồn từ danh từ drai “thác” trong tiếng Jrai, biểu thị địa hình địa vật đặc trưng của vùng cư trú của người Jrai. Tộc danh của người Hroi (hoặc Haroi) được cho là bắt nguồn từ danh từ ia harei “mặt trời”, biểu thị xuất xứ từ phía Đông và vùng cư trú ở phía Đông của người Hroi. Ta’ioh là tộc danh gọi người Ta’ioh, Pakóh, Pahi, biểu thị xuất xứ của họ là cao nguyên Ta’ioh ở Lào. Cũng có thể xếp vào loại này là tộc danh người Thổ “thổ dân” mà người Việt dùng để chỉ những cư dân bản địa trên những địa bàn mà người Việt đến mưu sinh: người Tày ở vùng núi Việt Bắc – Đông Bắc, người Thổ ở vùng núi Thanh Hóa – Nghệ An, người Stieng ở Bình Phước, người Khmer ở Nam Bộ… Thông điệp văn hóa của những tộc danh loại này là sự khẳng định địa vực cư trú hoặc xuất xứ của tộc người ấy, phân biệt với địa vực cư trú hoặc xuất xứ của các tộc người cận cư. Điều đó cũng tương tự các tộc danh Brũ, Sộ, Khùa, Vân Kiều, Trĩ, Măng Coong của người Brũ; các tộc danh Chăm, Chiêm Thành, Chàm của người Chăm; các tộc danh Minh Hương, Thoòng Dành, Từng Nán, Quảng, Quảng Đông, Tiều, Triều Châu, Phước Kiến, Phúc Kiến, Hải Nam, Hẹ, Hakka, Khách Gia… của người Hoa; các tộc danh KhêmarăɁ, Khmer của người Khmer…

     (3) Những tộc danh biểu thị đặc trưng văn hóa của tộc người: Tộc danh Sre “ruộng nước” để gọi nhóm Kơho biết làm ruộng nước là người Kơho Sre (Tạ Văn Thông, 1993, tr.23, 24); tộc danh Pu Nà “người làm ruộng” (Nguyễn Văn Lợi, 1993a, tr.10)… Thông điệp văn hóa của những tộc danh loại này là sự khẳng định đặc trưng văn hóa khác biệt của tộc người ấy, phân biệt với văn hóa của các tộc người cận cư. Điều đó cũng tương tự các tộc danh Chỡ, con Chỡ, con Ké Chỡ, mõl Kinh, Kinh Kỳ Ké Chỡ mà người Mường gọi người Việt; tộc danh ngài Puôn mà người Nguồn gọi người Việt; tộc danh Kinh mà người Tày, người Nùng, người Hán gọi người Việt; tộc danh Mường mà người Thái, người Việt gọi người Mường; tộc danh Bahnar Chăm của nhóm Chăm Hroi…

     (4) Những tộc danh mang sắc thái kì thị: Tộc danh Xá của người Thái ở vùng Tây Bắc – Bắc Trung Bộ gọi các tộc người Mon-Khmer làm lúa rẫy và săn câu lượm hái; tộc danh Khả Toong Lượng “Xá lá vàng” của người Thái ở Lào gọi người Rục săn câu lượm hái trong rừng; tộc danh Mọi của người Việt gọi các tộc người Mon-Khmer và MalayoPolynesian ở Trường Sơn – Tây Nguyên… Đây thường là những tộc danh phiếm chỉ, không nhằm vào một tộc người cụ thể nào, nhưng biểu thị những cái nhìn kì thị, khinh miệt đối với những tộc người bị xem là lạc hậu, bán khai. Điều đó cũng tương tự các tộc danh Yuan, Yuôn mà các tộc người Trường Sơn – Tây Nguyên và Chăm, Khmer trước đây dùng để gọi người Việt cận cư. Nguyên nhân hình thành những cái nhìn kỳ thị ấy là do sự tương phản về đời sống văn hóa vật chất, sự dị biệt về đời sống văn hóa tinh thần, và ảnh hưởng của các nền văn minh ngoại lai: người Việt chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa; người Thái, người Chăm và người Khmer chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ. Ngày nay, các tộc danh phiếm chỉ có sắc thái khinh miệt ấy không còn được dùng phổ biến, và được thay thế dần bằng những danh xưng trực chỉ và trung tính hơn.

4. Kết luận

     Cùng với ngôn ngữ tộc người, tộc danh là dấu chỉ trước tiên giúp cho một tộc người tự phân biệt với những tộc người khác và phân biệt những tộc người khác với tộc người mà mình sở thuộc. Nguồn gốc trực tiếp của tộc danh có thể là một danh xưng tự gọi, nhưng thường là xuất phát từ cách gọi để phân biệt của các tộc người lân cận. Các tộc người thường dựa vào nơi cư trú hoặc một điểm đặc trưng, đặc thù về văn hóa của các tộc người láng giềng để đặt tên cho họ. Do đó, tộc danh thường phản ánh xuất xứ và phản ánh cái nhìn của các tộc người đối với nhau.

     Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, và đóng vai trò trung tâm trong suốt tiến trình lịch sử Việt Nam chính là tộc Việt. Từ những nhóm tổ tiên cư trú trên miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, tộc Việt đã mở rộng địa bàn từ miền núi xuống đồng bằng, hải đảo và mở rộng lãnh thổ tộc người xuống phương Nam, cộng cư và tiếp biến văn hóa với các tộc người thiểu số anh em để làm giàu nội lực văn hóa của mình và của quốc gia dân tộc Việt Nam mà mình là rường cột. Trong quá trình đó, sự hòa hợp với các tộc người cộng cư thường xen kẽ với những va chạm về không gian sinh tồn và văn hóa, dẫn tới sự hình thành những tộc danh mang nghĩa xấu cả từ hai phía. Nhưng ngày nay, tộc Việt đã trở thành lực lượng đoàn kết các tộc người Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Chính nhờ vai trò đó của tộc Việt, quốc gia dân tộc Việt Nam mới có thể đương đầu với biết bao thiên tai địch họa mà vẫn trường tồn và phát triển. Và trong bối cảnh đổi mới, hội nhập, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay, tộc Việt với vai trò chủ thể văn hóa chính của văn hóa Việt Nam đang phát huy ảnh hưởng đến tất cả các vùng miền từ đồng bằng đến miền núi, cao nguyên. Ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của văn hóa Việt đang thu hẹp những khác biệt và mở rộng sự đồng nhất về văn hóa giữa các vùng miền, dẫn đến sự hình thành và phổ biến của những tộc danh trung tính, tôn trọng lẫn nhau giữa các tộc người đang chung sống trên lãnh thổ Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

– Béhaine, Pierre Pigneaux de. (1999). Dictionarium Anamitico Latinum (Tự vị Annam Latinh), 1772-1773, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu. TPHCM: NXB Trẻ.

– Huình Tịnh Paulus Của. (1998). Đại Nam quấc âm tự vị, Sài Gòn: Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1895-1896. NXB Trẻ in lại.

– Khổng Diễn. (1978). Dân tộc Bru. Trong Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc). Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

– Phan Hữu Dật. (1994). Trở lại tên gọi một số dân tộc nước ta hiện nay. Tạp chí Dân tộc học, 1.

– Trần Trí Dõi. (1999). Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

– Diffloth, Gérard. (1980-1981). Registres, Devoisement, Timbres Vocaliques: leur histoire en Katouique. Mon-Khmer Studies IX-X. Hawaii: The University Press of Hawaii.

– Mạc Đường. (1997). Dân tộc học và vấn đề xác định thành phần dân tộc. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.

– Efimov, A. Ju. (1985). Xung quanh vấn đế về từ nguyên tên gọi của một số dân tộc ở Đông Nam Á. Tạp chí Ngôn ngữ, 4.

– Grimes, Barbara F., editor (1988). Ethnologue: Languages of the world, 11th edition. Dallas: Summer Institute of Linguistics, Inc., Dallas, Texas, 748 p.

– Lý Tùng Hiếu. (2007). Đặc điểm về cấu tạo từ và về văn hóa Brũ và Việt qua sự so sánh từ vựng của hai ngôn ngữ này. Luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu. TP Hồ Chí Minh: Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, 6/10/2007.

– Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến. (2001). Việt Nam những sự kiện lịch sử (Từ khởi thủy đến 1858). NXB Giáo dục.

– Nguyễn Văn Khang (chủ biên). (2002). Từ điển Mường – Việt. Hà Nội: NXB Văn hóa Dân tộc.

– Vương Hữu Lễ. (1993). Ngữ âm và từ vựng tiếng Bru. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Tổng hợp Huế. Huế.

– Vương Hữu Lễ (1997). Từ điển Bru – Việt – Anh. Huế: NXB Thuận Hóa.

– Nguyễn Văn Lợi. (1993a). Tiếng Rục. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

– Nguyễn Văn Lợi. (1993b). Tộc danh của một số dân tộc ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Vấn đề tên gọi Giao Chỉ. Trong Việt Nam – những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa. Hà Nội: Hội Ngôn ngữ học Việt Nam và Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.

– Lương Ninh. (1984). Lịch sử trung đại thế giới, Phần phương Đông, quyển II. Hà Nội: NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp.

– Rhodes, Alexandre de. (1991). Dictionarium Annamiticum – Lusitanum – Latinum (Từ điển Annam – Lusitan – Latinh), 1651, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.

– Tạ Văn Thông. (1993). Tên riêng trong tiếng Kơho. Tạp chí Ngôn ngữ, 1.

– Trần Ngọc Thêm. (2004). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Cái nhìn hệ thống – loại hình, in lần thứ 4. TPHCM: NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

– Bùi Khánh Thế, Đinh Lê Thư (đồng chủ biên). (1994). Từ điển M’nông – Việt. Đắk Lắk: UBND tỉnh Đắk Lắk, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

– Võ Xuân Trang (Chủ biên), Đinh Thanh Dự, và Lý Tùng Hiếu. (2008). Văn hóa dân gian của người Nguồn ở Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

– Lương Vũ. (1993). Một số vấn đề xung quanh việc dạy học và phổ biến bộ chữ các dân tộc thiểu số ở một số tỉnh miền Trung. Trong Giáo dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phía Nam. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.

– Viện Dân tộc học. (1978). Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc). Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.

– Viện Dân tộc học. (1984). Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam). Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.

– Viện Ngôn ngữ học. (1984). Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và chính sách ngôn ngữ. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.

– Đặng Nghiêm Vạn. (1986). Tên gọi các tộc người ở Việt Nam – một phản ánh xã hội. Trong Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông. Hà Nội: Viện Ngôn ngữ học.

– Đặng Nghiêm Vạn. (2003). Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. TPHCM: NXB Đại học Quốc gia TPHCM.

ABSTRACT

     Along with ethnic language, the name of ethnic group is the first sign to help an ethnic group distinguish themselves from others, and distinguish other ethnic groups from the one they belong to. The origins of the name of ethnic groups can be self-designations, but often comes from the differentiated callings of the neighboring communities. The communities often base on the habitator a cultural characteristic of their neighbors to name them. Therefore, the the name of ethnic groups in Vietnam often reflect the origin and the perspective of the ethnic groups towards each other.

Keywords: name of ethnic group, nation name, place name, Vietnam.

Nguồn: Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM, tập 16, số 5 (2019): 173-185

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Nguồn gốc và ý nghĩa các tộc danh ở Việt Nam
(Tác giả: Lý Tùng Hiếu)