Rào cản tăng năng suất lao động của Việt Nam (Phần 2)

KIM NGỌC 1 , TRẦN NGỌC SƠN 2
 (1 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 2 Trường Đại học Đông Á)

3. Rào cản về cơ sở hạ tầng

     Trình độ công nghệ của doanh nghiệp còn lạc hậu, doanh nghiệp tham gia các hoạt động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế, chưa tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nên chưa tận dụng được tính lan toả của tri thức, công nghệ và năng suất lao động từ các công ty/tập đoàn xuyên quốc gia vào doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô kinh tế còn nhỏ, quá trình đô thị hóa chậm. Theo Báo cáo Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) năm 2014 của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), chỉ số đổi mới công nghệ Việt Nam đứng thứ 71/143 nền kinh tế, tăng 5 bậc và đứng thứ 4 trong ASEAN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ ở nước ta còn nhiều hạn chế. Trình độ cơ khí hóa, tự động hóa, tin học hóa của các ngành kinh tế còn thấp. Trong khi các quốc gia trong khu vực đều có tỷ trọng đầu tư cao trong sản xuất, thì đầu tư cho khoa học công nghệ của Việt Nam thấp. Trong giai đoạn 2011-2013, tỷ lệ đầu tư cho khoa học công nghệ chỉ khoảng 0,5% GDP. Trong vòng 10 năm, tỷ lệ này chỉ tăng từ 0,48% lên 0,51%. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học trên 1 người dân ở nước ta năm 2012 là 3,1 USD trong khi của Thái Lan là 22 USD, Malaysia là 86 USD và của Singapore là 1.340 USD [15].

     Qua hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam vẫn ở trình độ gia công. Cơ cấu kinh tế Việt Nam thay đổi đáng kể với đóng góp lớn của công nghiệp, nhưng cho đến nay, lợi thế của Việt Nam vẫn là lao động giá rẻ. Các ngành công nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn nằm ở khâu gia công, lắp ráp, có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị các ngành công nghiệp. Theo số liệu của VCCI, chỉ có 36% doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới chuỗi cung ứng tòan cầu, bao gồm cả xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp [7]. Trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, công nghiệp Việt Nam hiện đứng ở đáy, trong khi đó 70-80% giá trị sản phẩm nông nghiệp là nhập ngoại. Tăng trưởng của nền kinh tế đang lệ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài. Thực tế thu hút vốn FDI của Việt Nam hiện nay, cái được quá nhỏ so với cái mất. Không ít nhà đầu tư nước ngoài đang tận dụng được nguồn nhân công giá rẻ, tìm cách “ép” phía Việt Nam bởi chính sách lỏng lẻo mà phía Việt Nam cứ “lờ” như không biết. Đặc biệt, Việt Nam đang trả giá bằng môi trường mà chưa có thống kê cụ thể nào. Trong một số khu công nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp FDI mang công nghệ hiện đại tối tân vào Việt Nam chỉ đạt 5%, 95% còn lại là công nghệ truyền thống, hoặc quá lạc hậu. Phần lớn doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh, đang sử dụng công nghệ tụt hậu 2-3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới, trong đó 76% thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ nhập từ nước ngoài thuộc thế hệ những năm 1960-1970; 75% số thiết bị đã hết khấu hao; 50% thiết bị là đồ tân trang. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới 2016, hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI của Việt Nam ở mức rất thấp và có xu hướng ngày càng bị tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực. Cụ thể năm 2009, Việt Nam đứng thứ 57 trên thế giới về tiêu chí này, nhưng đến năm 2014, đã tụt xuống vị trí thứ 103, giảm 46 bậc, thấp hơn nhiều so với vị trí 13 của Malaysia; 36 của Thái Lan, 39 của Indonesia và 44 của Campuchia. Hiện nay, năng lực về đổi mới, cải tiến của khu vực doanh nghiệp trong nước rất thấp. Trên 70% doanh nghiệp không thực hiện bất cứ cải tiến hay hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) nào cả. Những doanh nghiệp còn lại có cải tiến nhưng tỷ lệ rất thấp. Năng lực của doanh nghiệp trong nước còn yếu, khó có thể tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất khu vực FDI [6].

     Điều này phản ánh sự tụt hậu khá xa của Việt Nam về năng lực cạnh tranh công nghệ. Ở ngành than, khai thác lộ thiên đã được cơ giới hóa, nhưng cơ giới hóa hầm lò, khâu  chiếm hơn một nửa sản lượng, thì chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp khoảng 2%. Do tỷ trọng than khai thác bằng công nghệ hầm lò ngày càng tăng, từ năm 2011 đến năm 2015, tỷ trọng than hầm lò tăng từ 45% lên 56%, hao phí lao động hầm lò cao hơn nhiều lần so với khai thác lộ thiên. Bên cạnh đó, chi phí để sản xuất than cũng tăng lên. Trước đây, để sản xuất 1 tấn than chỉ cần bóc dỡ 3,4 tấn mét khổi đất đá, nhưng hiện nay số lượng bóc dỡ lên đến gần 10 tấn, chưa kể cung đường đào than hiện tăng thêm 3,2 lần, làm chi phí sản xuất tăng thêm từ 3-5%/năm. Theo Quy hoạch tổng sơ đồ điện 7 thì từ năm 2015, nhu cầu than cho điện tăng lên mức 55-56 triệu tấn than, nhưng hiện mới chỉ đạt 44 triệu tấn. Đây là một thách thức của ngành than.

     Tỷ lệ doanh nghiệp công nghệ thấp, trung bình trong toàn ngành chế biến, chế tạo chiếm tới 88% tại thời điểm năm 2012. Nhiều công đoạn trong sản xuất, kinh doanh điện vẫn còn khá thô sơ, tốn nhiều nhân công, trong khi nhiều nước trong khu vực đã hiện đại hoá quy trình, thủ tục đo đếm lượng điện năng tiêu thụ của khách hàng bằng công tơ điện tử, có thể chuyển dữ liệu từ xa, truyền về trung tâm và kiểm tra thông tin hàng ngày, thậm chí hằng giờ qua hóa đơn điện tử. Ông Phạm Lê Thanh, Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đánh giá năng suất lao động ngành điện thấp là do đang dư thừa lao động, nhất là ở các chi nhánh điện. Biên chế trong các nhà máy phát điện cũng rất đông, vượt con số thông thường ở các nhà máy điện trên thế giới rất nhiều. Định mức thế giới là 1 MW có 1,5-2 người quản lý, điều hành, ở Việt Nam khoảng 15-20 người. Đa số người trong bộ máy các công ty phân phối điện chủ yếu đi ghi chỉ số công tơ, thu tiền điện, phát hóa đơn… Hiện ở các công ty phân phối của ngành điện, đội ngũ này chiếm đến hơn 60% số lượng nhân sự.

     Quy mô doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ bé, số doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp của cả nước, phần lớn doanh nghiệp chưa đạt được quy mô tối ưu (50-99 lao động) để có được mức năng suất lao động cao nhất. Số lượng doanh nghiệp lớn còn ít (chỉ chiếm 2,1%), doanh nghiệp chưa xâm nhập được vào các thị trường, trung tâm công nghệ của thế giới, do đó chưa thực hiện được chức năng cầu nối về công nghệ tri thức của thế giới vào thị trường trong nước. Năm 2014, trong tổng số 3.048 DNNN chỉ có 0,2% doanh nghiệp có hoạt động R&D. DNNN có tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ chỉ chiếm khoảng 4,3% tổng doanh thu, quy mô đầu tư cho hoạt động này khoảng 655 triệu đồng/năm cho đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị. Với quy mô đầu tư như vậy, khó có thể đổi mới, nâng cấp công nghệ, nhất là công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường. Mục tiêu đặt ra là xây dựng những tập đoàn kinh tế lớn trở thành những “cú đấm thép” của nền kinh tế nhằm cạnh tranh với những tập đoàn kinh tế lớn, những ngành công nghiệp lớn trên thế giới. Nhưng trên thực tế khả năng hội nhập và sức cạnh tranh của DNNN vẫn còn thấp. Điều này thể hiện rõ ở việc doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế [7].

4. Rào cản về nhân lực

     Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng, nguồn cung lao động luôn dồi dào; lực lượng lao động vẫn duy trì ở mức ổn định. Nhưng xét một cách tổng thể, nguồn nhân lực nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện tại, Việt Nam đang sở hữu một nguồn nhân lực khá dồi dào về số lượng, nhưng lại rất hạn chế về mặt chất lượng. Cả nước có khoảng 24.500 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.600 giáo sư; 10.000 phó giáo sư; 16.000 thạc sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.130 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó 49% giảng viên đại học có trình độ thạc sĩ trở lên. Cả nước hiện có 14.000 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp; 11.200 giáo viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ thông. Trong số 9.000 tiến sĩ được điều tra thì có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực sự làm công tác chuyên môn. 63% số sinh viên tốt nghiệp đại học chưa có việc làm. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp nhận sinh viên vào làm việc phải mất từ 1 đến 2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên ra trường có việc làm thì về cơ bản cũng chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Rõ ràng là, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chưa cao, có sự mâu thuẫn giữa lượng và chất của nguồn nhân lực chất lượng cao. Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng: cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó, tỷ lệ này của thế giới tương ứng là 4 và 12. Ở Việt Nam, cứ 10.000 dân thì có 181 sinh viên đại học, trong khi con số đó trên thế giới là 100, và ở Trung Quốc là 140. Hơn nữa, nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam lại phân bố không hợp lý: 92,2% cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tập trung ở 2 thành phố lớn Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, số cán bộ có trình độ từ tiến sĩ trở lên ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ chiếm chưa tới 1%. Trong số giáo sư và phó giáo sư, có tới 86,2% ở Hà Nội; 9,5% ở Tp. Hồ Chí Minh, các địa phương còn lại chưa tới 4,3%. Những năm gần đây, ở Việt Nam mỗi năm có hàng trăm ngàn sinh viên đại học, hàng chục ngàn học viên cao học, nghiên cứu sinh. Nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đang còn rất nhiều bất cập. Số lượng lao động qua đào tạo ở trình độ từ đại học trở lên ngày một gia tăng, nhưng chất lượng của lao động qua đào tạo, khả năng thích ứng công việc và phát huy kết quả đào tạo của số lao động này lại rất thấp. Theo kết quả khảo sát gần đây, tỷ lệ lao động qua đào tạo phát huy được tác dụng chưa tới 40%, tình trạng bằng cấp không đúng thực chất, “bằng dởm”, không phải là hiện tượng cá biệt; ngay cả những trường hợp được học hành, đào tạo rất quy củ, bài bản một cách nghiêm túc, nhưng khi ra làm việc vẫn không đáp ứng được yêu cầu, không phát huy được tác dụng [18].

     Mặc dù trong những năm qua, hệ thống giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo trình độ cao, được phát triển và mở rộng, nhưng chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp hơn nhiều so với khu vực; lao động có tay nghề cao thiếu hụt, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập. Theo đánh giá của WB, về chất lượng nguồn nhân lực, Việt Nam chỉ đạt 3,39 điểm trên tổng 10 điểm, trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,9 điểm; Thái Lan đạt 4,94 điểm. Trong khi nguồn nhân lực chất lượng cao hiện đang có tỷ lệ rất thấp thì vẫn có một lực lượng khá lớn nhân lực đào tạo ở trình độ cao đẳng (82,6 nghìn người), đại học (183,1 nghìn người) lại đang trong tình trạng thất nghiệp. Chất lượng lao động thấp gây khó khăn cho quá trình hội nhập quốc tế của lao động Việt Nam. Hiện nay, cạnh tranh về nhân lực chất lượng cao diễn ra mạnh mẽ trên bình diện thế giới, khu vực và quốc gia. Đó vừa là cơ hội, nhưng cũng vừa là thách thức không nhỏ đối với lao động Việt Nam. Việc mở ra khả năng di chuyển lao động giữa các nước đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng nghề cao, có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế với những tiêu chuẩn, tiêu chí do thị trường lao động xác định. Trong khi đó, lao động Việt Nam, kể cả lao động có trình độ đào tạo cao, dù có ưu thế về sức trẻ, sự cần cù, nhưng lại có hạn chế về khả năng hòa nhập trong môi trường lao động mới, kỹ năng thực hành, trình độ ngoại ngữ, tác phong công nghiệp, khó thích ứng với thay đổi. Theo đánh giá của WB, sự chuẩn bị kiến thức, kỹ năng, thái độ và tâm lý để sẵn sàng di chuyển sang làm việc tại các nước ASEAN của lao động Việt Nam chưa cao [10].

     Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tại Davos (Thụy Sỹ) tháng 1/2018 mang tên “Sự sẵn sàng cho nền sản xuất tương lai” chỉ rõ, Việt Nam nằm trong nhóm các nước chưa có sự sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Năm 2018, WEF đã tiến hành phân tích 100 quốc gia và nền kinh tế đại diện cho hơn 96% giá trị thị trường gia tăng toàn cầu (MVA) và hơn 96% tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu. WEF xếp Việt Nam vào nhóm các quốc gia yếu kém, chỉ đứng thứ 75/100 về chất lượng đào tạo đại học, 68/100 về chất lượng giáo dục toán và khoa học (3,7/7 điểm), 63/100 về tư duy phản biện trong dạy học (3,2/7 điểm), 44/100 về năng lực quốc gia để thu hút và giữ nhân tài (3,5/7 điểm). Các yếu tố về đổi mới sáng tạo công nghệ và giáo dục chuẩn bị cho cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam đều đang ở mức thấp. Cụ thể, Việt Nam đứng thứ 90/100 về công nghệ và đổi mới; 92/100 về công nghệ nền; 77/100 về năng lực sáng tạo; 70/100 về nguồn lực con người. Tổng cộng, Việt Nam chỉ đạt 4,9 trên thang điểm 10 về mức độ sẵn sàng với cách mạng 4.0, tương đương Campuchia, thua kém Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia [17].

     Về quản lý nhà nước, việc định hướng, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của các ngành vẫn còn hạn chế, khá manh mún và thiếu đồng bộ. Hệ thống thông tin thị trường lao động chưa theo kịp thời sự biến động của thị trường lao động; chưa đưa ra được các dự báo trung và ngắn hạn về thị trường lao động và tính hiệu quả chưa cao của hoạt động dịch vụ việc làm đã góp phần làm gia tăng xu hướng này [10].

     Việc dự báo nhu cầu nguồn nhân lực dài hạn cho phát triển kinh tế – xã hội cũng rất hạn chế, cơ cấu đào tạo theo ngành nghề, trình độ đào tạo không được quy hoạch lâu dài. Các cơ sở đào tạo không đủ thông tin về cung, cầu lao động, nên việc xây dựng ngành nghề, chỉ tiêu và trình độ đào tạo hàng năm không sát thực tiễn. Quy mô và chất lượng đội ngũ giảng viên còn hạn chế. Việc phân luồng ở bậc trung học cơ sở và hướng nghiệp ở bậc trung học phổ thông vẫn còn lúng túng. Tính liên thông giữa các bậc học, loại hình đào tạo chưa rõ. Khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn. Chất lượng giáo dục nghề nghiệp chưa tiếp cận được các chuẩn của khu vực và thế giới để bảo đảm văn bằng chứng chỉ của Việt Nam được công nhận ở các nước khác [10].

5. Giải pháp tháo gỡ

     Thứ nhất, tái phân bố nguồn lực. Theo Trần Văn Thọ, Đại học Waseda, Tokyo, thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng, Việt Nam muốn tăng trưởng đột phá thì phải tăng nhanh năng suất lao động; đầu tiên cần tái phân bổ nguồn lực, chuyển dịch lao động dư thừa sang các khu vực có năng suất cao hơn. Cải thiện năng suất thông qua các chuyển dịch từ khu vực có năng suất kém sang khu vực có giá trị gia tăng cao hơn. Hiện nay, lao động dư thừa đang nằm nhiều trong nông nghiệp và kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình. Việc dư thừa này tạo dư địa để tăng năng suất, tái phân bổ nguồn lực. Thực tế tại Nhật Bản, lao động chuyển nhanh chóng từ nông nghiệp và khu vực kinh doanh cá thể sang công nghiệp. Trong nội bộ công nghiệp cũng có sự chuyển dịch từ các ngành có giá trị gia tăng thấp như dệt may, giày dép sang các ngành có giá trị cao như sản xuất sản phẩm điện tử, ôtô… Các ngành truyền thống như thép, đóng tàu cũng qua cách tân công nghệ chiếm vị trí hàng đầu thế giới về năng suất và chất lượng [1].

     Thứ hai, hình thành xã hội sáng tạo. Cải thiện và thúc đẩy tăng năng suất lao động là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Tăng năng suất lao động là yếu tố quyết định tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế, năng suất lao động cao đồng nghĩa với phát triển nhanh, bền vững, chống tụt hậu so với các nước trong khu vực. Để không rơi vào tình trạng suy giảm năng suất, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực. Kinh nghiệm của Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore cho thấy, sáng tạo là yếu tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng, và các nền kinh tế này tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tích lũy vốn, phát triển nguồn nhân lực, định hướng xuất khẩu. Chính vì vậy, điều Việt Nam có thể học hỏi là tập trung vào phát triển con người thông qua tăng cường giáo dục về khoa học, công nghệ; tăng cường giáo dục kỹ thuật và đào tạo tay nghề; thu hút tài năng, kinh nghiệm từ người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài. Muốn tăng năng suất lao động đòi hỏi phải hình thành một xã hội sáng tạo. Mọi sáng kiến dù là nhỏ nhất cũng cần phải được xã hội nuôi dưỡng và trân trọng mới có nền tảng để tăng năng suất lao động. Muốn tăng trưởng phải cải thiện năng suất lao động, giải quyết ngay các nút thắt cổ chai về cơ sở hạ tầng, đầu tư công nghệ để tăng giá trị cho sản phẩm. Lâu nay, chúng ta chỉ giải quyết vấn đề theo cách xử lý hiện tượng mà không đi vào bản chất vấn đề. Nay đã đến lúc Việt Nam phải thay đổi cách làm. Theo các chuyên gia, năng suất lao động Việt Nam thấp có liên quan rất lớn đến năng lực đổi mới, sáng tạo của người lao động. Người lao động không được làm việc trong môi trường tự do sáng tạo và khuyến khích sáng tạo. Tại Việt Nam, cơ quan quản lý vẫn mang tâm lý “không quản được thì cấm”, nhiều ngành, nghề và nhiều ý tưởng của người dân, doanh nghiệp không được phát huy.

     Thứ ba, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Trước hết, cần thay đổi quan điểm về tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, chuyển từ tiêu chí đánh giá chất lượng dựa trên trình độ đào tạo sang tiêu chí về năng lực thực tiễn, kỹ năng nghề. Không phải tất cả những người đã qua đào tạo đều đáp ứng các công việc. Nhân lực chất lượng cao không chỉ thể hiện ở tấm bằng, chứng chỉ học vấn, nghề nghiệp, mà chủ yếu ở chất lượng văn hóa, trình độ tay nghề, kỹ năng lao động để làm ra các sản phẩm có chất lượng cao. Đồng thời, cần chuyển từ nhận thức coi nguồn lao động giá rẻ là lợi thế sang đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để tăng sức cạnh tranh trong cơ hội việc làm; tập trung ưu tiên thu hút các nhà đầu tư lớn, các tập đoàn sản xuất mạnh, khu vực sản xuất công nghệ cao bên cạnh chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; hình thành khung pháp lý và cơ chế cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Xác định rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; đẩy mạnh chiến lược xã hội hóa giáo dục, qua đó huy động tiềm năng xã hội cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; bổ sung, hoàn thiện quy hoạch hệ thống các trường đại học, cao đẳng đến năm 2020 và tầm nhìn 2030; thực hiện đánh giá chất lượng đào tạo, kiểm định và xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước; chú trọng sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các cơ sở giáo dục – đào tạo và các cơ quan, doanh nghiệp nơi sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao; chú trọng xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trình độ cao; rà soát tổng thể đội ngũ giảng viên đại học, nhà giáo giáo dục nghề nghiệp để thực thiện chuẩn hóa và xây dựng lộ trình chuẩn hóa để đáp ứng mục tiêu đào tạo nghề đến năm 2020; quan tâm phát triển chương trình và đào tạo nghề chất lượng cao; đẩy nhanh việc xây dựng các chuẩn đầu ra dựa trên tiêu chuẩn nghề phù hợp với khung trình độ quốc gia; trước mắt tập trung vào các nghề trọng điểm, các nghề có trong danh mục của hội thi tay nghề ASEAN; rà soát và điều chỉnh việc xây dựng các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, theo hướng linh hoạt, tăng tính thực hành [10].

     Thứ tư, tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Phát biểu tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần thứ 2 tại Hà Nội, tháng 1/2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: tăng trưởng và phát triển là một cuộc đua marathon đường trường chứ không phải là một cuộc chạy đua nước rút. Trong thời gian tới, Việt Nam cần kiên trì theo đuổi mô hình tăng trưởng mới dựa trên nền tảng là năng suất và đổi mới sáng tạo. Với những nước đang trong giai đoạn đầu quá trình công nghiệp hóa như Việt Nam thì giải pháp nhanh chóng và hiệu quả nhất để tăng nhanh năng suất lao động là thu hút vốn FDI vào các hoạt động dịch vụ, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp có giá trị cao hơn. Đồng thời, Việt Nam cần kết nối những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước với các tập đoàn đa quốc gia thông qua trao đổi thông tin, cải tiến kỹ năng và chuyển giao công nghệ. Chúng ta cần có những chiến lược mới, định hướng mới trong việc thu hút FDI để khu vực này đóng vai trò quan trọng hơn trong việc chuyển giao, nắm bắt công nghệ, tăng năng suất lao động cho nền kinh tế, nhằm góp phần đạt mục tiêu tăng năng suất lao động bình quân 5,5%/năm; có 30-35% doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo giai đoạn 2016-2020 [9].

6. Kết luận

     Nâng cao năng suất là yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế của một quốc gia; và chỉ có tăng năng suất, Việt Nam mới có thể tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Mặc dù có chuyển biến tích cực những năm gần đây, Việt Nam phải quan tâm đặc biệt đến năng suất lao động, bởi năng suất lao động Việt Nam vẫn dưới mức tăng trưởng cần thiết để đạt các mục tiêu tăng trưởng kỳ vọng. Theo tính toán, để đạt được GDP bình quân 6,85% trong 3 năm 2018 – 2020, hay mục tiêu GDP từ 6,5% đến 7% cùng thời gian trên, tốc độ tăng năng suất lao động phải đạt 6% [16]. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra cho Việt Nam những cơ hội chưa từng có, điều này tạo ra những bước tiến vượt bậc trong tăng năng suất lao động và hiệu quả. Theo kiến nghị của Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng, Việt Nam, nên chọn năm 2019 là năm tăng năng suất lao động quốc gia, đồng thời cần tuyên truyền, phổ biến rộng rãi ý nghĩa của việc thúc đẩy năng suất lao động cũng như các trường hợp thành công điển hình về năng suất lao động của các nước trên thế giới; cần đặc biệt khuyến khích tư nhân làm đầu tàu, dẫn dắt phong trào nâng cao năng suất lao động quốc gia, từ việc cung cấp các dịch vụ tư vấn, đến chia sẻ các điển hình, đưa ra phản hồi chính sách đối với Chính phủ; lựa chọn một số ngành để thực hiện thí điểm năng cao năng suất lao động hiệu quả; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nhất là đối với Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, để xây dựng chương trình xúc tiến năng suất có hiệu quả. Chủ động xây dựng chương trình hợp tác song phương giữa Nhật Bản hoặc Hàn Quốc với Việt Nam nhằm thúc đẩy nâng cao năng suất lao động thông qua sự liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp Việt và các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc tại Việt Nam trong sản xuất, đào tạo, nghiên cứu sản phẩm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Ban Kinh tế Trung ương (2018), Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần thứ 2, tháng 1, Hà Nội.

[2] Nguyễn Anh Bắc (2015), “Năng suất lao động ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4.

[3] Võ Đại Lược (2018), “Tái cơ cấu kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7.

[4] Kim Ngọc (2018), “Phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8.

[5] Thời báo Kinh tế Việt Nam (2018), “Nâng cao năng suất lao động, đòn bẩy tăng trưởng kinh tế”, Diễn đàn CEO, ngày 13/4, Hà Nội.

[6] Thùy Dung (2018), “Chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI: Sự thật không như kỳ vọng”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 27.

[7] Trần Đình Thiên, Nguyễn Đình Hòa (2018), “Doanh nghiệp nhà nước: sứ mệnh, chức năng và định hướng phát triển”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 4.

[8] Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) (2018), Báo cáo thường niên Kinh tế
Việt Nam 2018, Hà Nội.

[9] http://vov.vn/kinh-te/doanh-nghiep/sang-taola-chia-khoa-tang-nang-suat-lao-dong752979.vov, truy cập ngày 10/10/2018.

[10] http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Nang-suat-laodong-nuoc-ta-thua-ca-Lao-ai-chiu-trach-nhiempost186505.gd, truy cập ngày 10/10/2018.

[11] http://trithucvn.net/kinh-te/nang-suat-lao-dongcua-viet-nam-thap-nhat-trong-khu-vuc-baitoan-kho-giai.html, truy cập ngày 10/10/2018.

[12] http://vneconomy.vn/nang-suat-lao-dong-donbay-tang-truong-kinh-te-viet-nam-20180413151324701.htm, truy cập ngày 10/10/2018.

[13] http://vtc.vn/thuc-hien-hieu-qua-co-phan-hoadoanh-nghiep-nha-nuoc-d427308.html), truy cập ngày 10/10/2018.

[14] http://dantri.com.vn/blog/2-nam-nha-nuockhong-xong-chiec-vach-kinh-tu-nhan-lam-casan-bay-20180809054018602.htm), truy cập ngày 10/10/2018.

[15] http://dantri.com.vn/kinh-doanh/nang-suat-laodong-cua-viet-nam-con-thua-xa-singaporetrung-quoc-20180413150326628.htm

[16] https://dantri.com.vn/kinh-doanh/nang-suatlao-dong-viet-nam-chi-bang-1-4-thai-lan-1-10-my-nhat-20180604083106981.htm, truy cập ngày 10/10/2018.

[17] http://kenh14.vn/viet-nam-chi-dung-thu-75-100-ve-chat-luong-dao-tao-dai-hoc-20180307103323762.chn, truy cập ngày 10/10/2018.

[18] http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/30648/Giao-duc-daotao-voi-phat-trien-nguon-nhan-luc-chatluong.aspx, truy cập ngày 10/10/2018.

Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 – 2019

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)