Sắc màu tâm linh trong địa danh Việt Nam qua yếu tố giai thoại và truyền thuyết

Tác giả bài viết: Tiến sĩ  NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH
(Khoa Văn hóa – Du lịch, Trường Đại học Sài Gòn)

TÓM TẮT

     Từ sự biết, sự hiểu, sự lưu truyền những giá trị truyền thống dân tộc, thông qua những giai thoại và truyền thuyết gắn với địa danh, với những sắc màu linh thiêng hóa, thần thánh hóa, nhiều giá trị mang tính truyền thống tín ngưỡng bản địa và những giá trị tôn giáo và cả những giá trị giao lưu, tiếp biến văn hóa với các dân tộc, các quốc gia khác trong diễn trình lịch sử của dân tộc đã được bộc lộ, được cộng hưởng và lan tỏa. Sự hiện hữu của những yếu tố linh thiêng hóa, tâm linh hóa trong giai thoại và truyền thuyết ở mỗi một địa danh, thực sự đã gắn bó, hòa quyện vào đời sống tinh thần người Việt, đáp ứng nhu cầu con người từ hai phương diện niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo và sự chuyển hóa tâm thức, thực hành các nghi lễ truyền thống. Đây chính là cơ sở tạo nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn, thu hút, sức lan tỏa đặc biệt của chiều văn hóa tâm linh trong địa danh.

Từ khóa: thần thánh, tín ngưỡng bản địa, tâm linh, giai thoại, truyền thuyết.

ABSTRACT

     From the knowlegeable understanding of traditionally national values handed down by one generation to another, depicted through anecdotes, legends tied with place – names colorfully legendized and deified, exist the values that hold native belief and religion, as well the exchangeable values of culture with other peoples or states in the course of national history that have been displayed and resonated. The existence of the diefication and legend elemments in anecdotes and stories in different place- names have been closely harmonized and connected with the spiritual life of the people of Viet Nam, meeting the human requirement on both belief, and religion as well the spiritual evolution and the practice of traditional rituals. It is the basics that form the beauty and attraction, and spread out the spiritual dimention of the place names.

Keywords: deities and saints, native belief, anecdotes, legends.

x
x x

1. Dẫn nhập

     Lẽ thường, khi nhắc đến tâm linh, người ta nghĩ ngay đến một cái gì đó thiêng liêng, vô hình, phi thực và mang tính vĩnh cửu. “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” [2, 11]. Với trường hợp các địa danh, điều đó là rõ nét nhất, rõ đến mức có thể nhìn thấy được cả chiều kích, một chiều kích tâm linh được thẩm thấu qua những truyện tích, giai thoại và truyền thuyết gắn với những tên gọi của những đối tượng địa lí-nhân văn cụ thể. Trong đó, những yếu tố giai thoại và truyền thuyết đã góp phần làm nên phần hồn của mỗi đối tượng địa lí-nhân văn ấy, tạo nên một không gian tâm linh trong địa danh để cho mọi giá trị tinh thần của bản sắc văn hóa dân tộc Việt được bộc lộ và lan tỏa. Nhờ đó, những sắc màu đẹp đẽ của bức họa về địa danh trở thành biểu trưng cho những giá trị cao đẹp của hồn thiêng sông núi, của lòng kính ngưỡng, tri ân tổ tiên và các vị tiền nhân, các bậc thần, bậc thánh, các bậc tổ mẫu, của sự ngưỡng vọng đối với những sự hi sinh cao cả và đối với cuộc đấu tranh chống lại các thế lực tự nhiên và xã hội vì sự bình yên của cuộc sống, của sự cao cả đối với tình yêu đôi lứa, tình anh em, cha con, chồng vợ… Tất cả đều đã được thiêng hóa, linh hóa, thần thánh hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp của không gian tự nhiên, nhiều địa danh trong hệ thống địa danh Việt Nam còn lan tỏa bằng vẻ đẹp của chiều kích không gian tâm linh, không gian tín ngưỡng tôn giáo.

2. Không gian tâm linh trong địa danh và biểu hiện của sắc màu tâm linh qua giai thoại và truyền thuyết gắn với địa danh Việt Nam

     Địa danh là tên riêng của các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn, có tính xác định, bao gồm tên riêng các địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ, mang trong mình “số phận” một đối tượng, một vùng đất, một dân tộc, một đất nước, một con người. Chúng được xem là những “vật hóa thạch”,“đài tưởng niệm”, tấm bia lịch sửvăn hóa của đất nước. Qua địa danh, chúng ta có thể thấy bóng dáng của một đời sống tự nhiên, một đời sống vật chất và tinh thần của con người với những nhu cầu tâm lý, tâm linh, những giá trị truyền thống bản địa cùng với những giá trị giao lưu, tiếp biến văn hóa với nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác trong diễn trình lịch sử -văn hóa của dân tộc. Do thế, mỗi một đối tượng địa línhân văn, khi đóng vai trò là điểm hội tụ của không gian tâm linh trong địa danh, đấy là sự hợp thành của ba yếu tố: 1) Có dấu ấn của tín ngưỡng bản địa hoặc dấu ấn tôn giáo; 2) Có giai thoại, truyền thuyết lâu đời gắn với đối tượng địa danh đó và được nhân dân kính ngưỡng, lưu truyền; 3) Có không gian thiêng được bao quyện bởi khung cảnh thâm nghiêm, huyền tịch. Khi hội đủ những điều kiện của ít nhất một trong ba yếu tố này, mỗi đối tượng địa danh lúc ấy sẽ không còn đơn thuần chỉ có chiều kích vật lí mà đã vượt thoát trở thành một đối tượng nhân văn có chiều kích tâm linh, mở ra những chiều sâu của sự suy tưởng, suy nghiệm, những sắc màu mang tính chất thiêng hóa và luôn ánh lên vẻ đẹp của sự ngợi ca những giá trị của con người và văn hóa Việt Nam. Chỉ riêng nói về thành tố thứ hai, tức yếu tố giai thoại, truyền thuyết, nếu nhìn qua giác độ văn hóa dân gian, chúng ta sẽ thấy sự thẩm thấu và lan tỏa của những giá trị thiêng liêng trong truyền thống văn hóa dân tộc, nghĩa là nhìn các giá trị truyền thống dân tộc trong dòng chảy văn hóa và được lắng tụ ở mỗi địa danh, trong sự hiểu, sự biết và sự lưu truyền giữa các thế hệ người Việt, còn nếu nhìn qua giác độ ngôn ngữ học, tên gọi địa danh là sự ánh xạ của chiều kích tâm linh, một chiều thứ ba ngoài hai chiều vật lí mà một số nhà ngôn ngữ học theo quan điểm thuần túy chưa thực sự công nhận, chẳng hạn, Lê Trung Hoa định nghĩa: “Địa danh là những từ hoặc ngữ, được dùng làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều” [3, 12]. Vì vậy, trong bài viết này, đứng từ góc độ liên ngành văn hóa-ngôn ngữ học, chúng tôi muốn chứng minh rằng, có một chiều thứ ba thực sự – chiều tâm linh trong địa danh mà nhờ đó, những giá trị bản sắc văn hóa được lộ diện, nói khác đi đó là những biểu hiện về sắc màu của không gian tâm linh trong địa danh. Và với sự lan tỏa lung linh, huyễn hoặc của những sắc màu ấy, không gian tâm linh bỗng trở nên thực hơn và cũng ảo hơn bởi những giá trị vĩnh hằng được phản chiếu trong cõi nhân sinh và cõi linh thiêng thần thánh.

     2.1. Sắc màu của không gian tâm linh biểu hiện sự kính ngưỡng với hồn thiêng sông núi và các đấng thần thánh qua giai thoại và truyền thuyết gắn với địa danh Việt Nam

     Khác với cách nghĩ thiên về trừu tượng, ở trường hợp cụ thể của địa danh, không gian tâm linh lại được biểu hiện khá sống động, với sự vận động cả trong chiều không gian lẫn chiều thời gian. Nhìn trong chiều thời gian, không gian tâm linh được biểu hiện và hàm chứa qua bức màn sương khói về diễn trình lịch sử của đời sống con người với những quy luật phát triển riêng của nó. Nhìn trong chiều không gian, không gian tâm linh lại được biểu hiện qua sự vận động của những tên gọi chỉ địa hình hay chỉ công trình xây dựng ở mỗi địa phương vùng, miền khác nhau và luôn chứa đầy huyền tích. Với sự thẩm thấu và lan tỏa từ những giai thoại và truyền thuyết, chiều kích của không gian tâm linh đã bộc lộ một cách rõ nét, trước hết là vẻ đẹp của hồn thiêng sông núi Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca “Mặt đường khát vọng” đã diễn tả rất đúng ý này:

“…Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

     Những địa danh được nhắc đến trong lời thơ trên hẳn không xa lạ gì với bất cứ người Việt Nam nào bởi lẽ đơn giản, chúng gần gũi và quen thuộc đến mức những sự tích, giai thoại hay truyền thuyết gắn với tên gọi địa danh ấy ai cũng có thể thuộc, ai cũng có thể kể. Nhờ thế, trong sự hiểu, sự biết và sự lưu truyền giữa các thế hệ người Việt, chúng được xem như những địa chỉ tâm linh tiêu biểu mà mọi người thường hướng đến mỗi khi muốn tìm về những giá trị nguồn cội hoặc những giá trị thiêng liêng của truyền thống dân tộc hay văn hóa bản địa. Một địa danh Hạ Long chẳng hạn, với trí tưởng tượng dân gian và ý niệm về cội nguồn con Rồng cháu Tiên, người Việt đã tạo nên một truyền thuyết hết sức cao quí và thiêng liêng nhằm bất tử hóa ý niệm đó trong tên gọi địa danh này. Cho nên, thực chất câu chuyện Ngọc Hoàng sai rồng mẹ mang theo một đàn rồng con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc ngay từ thuở mới bắt đầu lập nước, sau đó vì thấy con người và vùng đất thanh bình, tươi đẹp, mẹ con đàn rồng không trở về trời mà ở lại cùng muôn đời con cháu nước Việt gìn giữ đất nước, đấy là vì cha ông ta muốn tạo ra hàm ý sâu xa nhằm nhắn gửi cho hậu thế về vùng đất rồng tiên, cội nguồn cao quí của dân tộc. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà mỗi đối tượng địa danh của vùng đất thiêng này đều được chỉ rõ trong tên gọi: nơi rồng mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi rồng con đáp xuống là Bái Tử Long và nơi đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ. Có thể nói, với sự kì vĩ của không gian tự nhiên đã làm cho những truyền thuyết gắn với những địa danh ở đây mang tính chất thiêng hóa và được hòa nhịp, lan tỏa: một người con gái vạn chài xinh đẹp vì quyết liệt bảo vệ tình yêu chung thủy mà bị đày ra đảo hoang rồi hóa thành hang Trinh Nữ; một chàng trai hoá đá luôn quay mặt về phía hang Trinh Nữ như là sự huyễn hoặc của tự nhiên với thế giới người đời; hay một động Kim Quy, nơi gắn với truyền thuyết về Rùa Vàng sau khi giúp vua Lê Lợi đánh tan quân giặc, đã tiếp tục diệt trừ yêu quái, rồi hoá đá trong động; hay truyền thuyết về vua Rồng ở động Thiên Cung, một chứng cứ về sự hòa hợp giữa thần linh và người trần giới, giữa cõi thiêng và cõi thực. Phải chăng đây là bức thông điệp mà người xưa muốn gửi cho hậu thế? Phải chăng đây là không gian tâm linh của hồn thiêng sông núi Việt Nam được hình hài hóa, hiện hữu hóa nơi địa danh được coi là biểu tượng của vẻ đẹp đất trời Việt Nam?

     Trong sự hiểu, sự biết và sự lưu truyền giữa các thế hệ người Việt, việc ý niệm hóa, hiện hữu hóa những giá trị thiêng liêng qua giai thoại và truyền thuyết tạo nên không gian tâm linh trong địa danh không chỉ được biểu hiện ở một trường hợp mà dường như, có tính chất hàng loạt và gần như lan tỏa suốt một dải đất hình chữ S của đất nước Việt Nam. Như trường hợp danh thắng Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng chẳng hạn, chỉ với 5 ngọn núi đá vôi hình thành mà có biết bao câu chuyện huyền thoại, truyền thuyết được thêu dệt. Đáng kể nhất là truyền thuyết về con Rồng đẻ ra quả trứng Long Quân rồi nở ra một cô Tiên xinh đẹp, từ đấy nâng lên tầm cao của triết lí Ngũ hành, hóa tạo nên đá núi Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn và Thổ Sơn, khắc lên ý nghĩa của năm ngọn núi quần tụ, mang tầm cao của một học thuyết đã từng chi phối đời sống tư tưởng của dân tộc Việt, về sau còn được bổ sung thêm yếu tố Phật tích để hai hệ thống triết thuyết về tín ngưỡng bản địa và tôn giáo ngoại lai gặp gỡ nhau để rồi tiếp biến, đan xen trong dáng hình vật chất của những ngọn núi, của thạch nhũ hay động phủ, biến Ngũ Hành Sơn thành một trong những điểm tâm linh nổi tiếng bậc nhất không chỉ của vùng đất sông Hàn.

     Trường hợp những địa danh ở vùng đất sông Hương núi Ngự, vùng đất vua chúa, nơi linh thiêng tụ khí, thông qua sự hiểu, sự biết và sự lưu truyền giữa các thế hệ người Việt, những giai thoại, truyền thuyết gắn với những địa danh nơi đây cũng luôn được linh hiển hóa, đậm chất cao sang và không kém phần hào sảng. Chỉ riêng một địa danh chỉ ngôi chùa Thiên Mụ, trí nhớ dân gian lưu truyền ít nhất bốn truyền thuyết và đều liên quan đến sắc màu Phật giáo, sắc màu vua chúa: truyền thuyết thứ nhất cho rằng, Cao Biền- một viên tướng đời nhà Đường, từng tìm cách trấn yểm đồi Hà Khê, nhưng nhờ có bà tiên chỉ dẫn lập chùa thờ Phật, thỉnh cầu linh khí, bồi đắp mạch núi linh thiêng cho bậc quốc chủ xuất hiện về sau nên được gọi là núi Thiên Mụ; truyền thuyết thứ hai lại kể về chúa Nguyễn Hoàng nghe theo lời chỉ dẫn của bà lão nhà trời, khi tìm đất định đô, cầm nén hương xuôi theo dòng sông Hương, đến đúng địa phận kinh thành Huế thì nén hương cháy hết, tại đó, chúa cho mở đất, xây thành lập nên vương triều nhà Nguyễn tồn tại hơn 200 năm, với 13 triều đại kế tiếp nhau; truyền thuyết thứ ba lại kể, vị chúa Tiên Nguyễn Hoàng khi đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, thấy ngọn đồi Hà Khê nhô lên như hình chiếc đầu rồng đang uốn khúc bên dòng nước trong xanh, lại được người dân địa phương mách bảo, rằng một bà tiên cho biết sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, vì thế, chúa cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ Tự”; Truyền thuyết thứ tư kể về vua Tự Đức, vì cầu mong có con nối dõi, sợ chữ “Thiên” phạm đến trời nên vị vua này cho đổi từ “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ” (“Bà mụ linh thiêng”). Như vậy, với trí nhớ dân gian, sự lưu truyền trong cả bốn truyền thuyết về cùng một địa danh đều cho thấy được lí do và nguồn gốc xuất hiện của một tên gọi, thấy được khí thiêng sông núi hiện hữu trong một đối tượng địa danh, thấy được sắc màu trong không gian tâm linh với sự lan tỏa của yếu tố tôn giáo, yếu tố tín ngưỡng văn hóa bản địa của cư dân nơi vùng đất này.

     Chính sự lưu truyền những giá trị nhân văn linh thiêng đó trong trí nhớ dân gian mà ở vùng đất miền Trung vốn từng là địa bàn sinh sống của cư dân Chăm, có khá nhiều địa danh, đặc biệt là trong hệ thống tháp Chăm trở thành điểm hội tụ văn hóa với nhiều truyền thuyết thể hiện những giá trị giao lưu và tiếp biến văn hóa và vì thế, sắc màu của không gian tâm linh ở đây khá đặc biệt. Trường hợp của thánh địa Mỹ Sơn, hay tháp Pônagar là những dẫn chứng tiêu biểu. Những truyền thuyết gắn với hai địa danh ấy đã cho người ta thấy tín ngưỡng cổ truyền của cư dân Chăm, cũng như tín ngưỡng cổ ở Đông Nam Á là theo thuyết vũ trụ lưỡng nghi với tư duy cặp đôi, tư duy âm dương là phổ biến và đã dung hợp với những tôn giáo được du nhập từ Ấn Độ như Ấn giáo, Phật giáo để trở thành tín ngưỡng chính của vương triều Champa. Hoặc địa danh chỉ công trình xây dựng tháp Pôklông Garai, ngôi tháp từng được xem là trung tâm rực rỡ nhất của nền văn minh Chăm, do vua Chế Mân chỉ đạo xây dựng từ cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 đạt đỉnh cao trong kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc của dân tộc Chăm, mà truyền thuyết cho rằng nó là sản phẩm của vua Pôklông Garai, vị vua có sự khởi nguyên kì lạ ở người mẹ vốn được hạ sinh từ bọt biển, vì quyền lợi của dân tộc, để tránh đổ máu vô ích trong cuộc chiến với người Miên nên đã chủ động thách tướng Miên thi tài xây tháp, ai xong trước sẽ thắng. Kết quả cuộc chiến trí tuệ này, dĩ nhiên là sự chiến thắng của vua Pôklông Garai bằng sức mạnh, sự khéo léo, tài trí thông minh nên nhờ đó, bờ cõi được giữ yên, người dân được hưởng cuộc sống hòa bình, hạnh phúc.

     Trong dòng chảy của sự lưu truyền những giá trị nhân văn thiêng liêng đó, ở cuối trời phương Nam, nơi vùng “Hà Tiên thập cảnh”, có hệ thống cảnh quan tựa Vịnh Hạ Long, với những giai thoại, truyền thuyết gắn với địa danh nơi đây mới thấy hồn thiêng khí núi của đất trời Việt Nam tỏa rộng, sống động biết dường nào. Tuy mang đặc điểm của vùng đất mới vừa khắc nghiệt, vừa hoang dã nhưng những tên gọi địa danh ở đây lại mang đầy tính mĩ cảm và hình tượng: một hòn đảo Kim Dự Lan Đào (Đảo Vàng Chắn Sóng), một ngọn núi Bình San Điệp Thúy (Núi Bình San Xanh Biếc), một ngôi chùa Tiêu Tự Thành Chung (Tiếng Chuông Tiêu Tự), một Giang Thành Dạ Cổ (Tiếng Trống Đêm Ở Giang Thành), một động đá Thạch Động Thôn Vân (Mây Luồn Thạch Động), một núi Châu Nham Lạc Lộ (Châu Nham Cò Đậu), một hồ nước Đông Hồ Ấn Nguyệt (Đông Hồ Trăng Soi), một vịnh nhỏ Nam Phố Trừng Ba (Sóng Trong Nam Phố), một xóm Lộc Trĩ Thôn Cư (Xóm Dân Ở Lộc Trĩ), một xóm chài Lư Khê Ngư Bạc (Cảnh Chài Cá Ở Lư Khê). Tô điểm cho mỗi tên gọi ấy là cả một tổ hợp những giai thoại, truyền thuyết hết sức đặc sắc. Chỉ riêng Thạch Động Thôn Vân- một cảnh đẹp được Mạc Thiên Tích, chủ soái của nhóm Tao Đàn Chiêu Anh Các đề cao trong bài thơ tổng vịnh mười cảnh đẹp “Bình Sơn, Thạch Động là rường cột/ Sừng sững muôn năm cũng để dành”- đã có nhiều truyền thuyết, trong đó nổi bật là truyền thuyết về chàng Thạch Sanh, mà với trí nhớ người dân của vùng này, họ luôn tin tưởng và tự hào rằng Thạch Động là nơi phát sinh câu chuyện cổ tích nổi tiếng khắp cả nước “Thạch Sanh Lý Thông”, là nơi Thạch Sanh chém chằn tinh để giúp dân làng, đồng thời cũng là nơi Thạch Sanh giết đại bàng và cứu công chúa, với bằng chứng xác thực trên đá, dưới chân đường thông thiên nhìn vào vách thạch nhũ còn hiện hữu những dấu vết chân chim, có hình đầu con đại bàng khổng lồ đang quặp một cô gái, có hình Thạch Sanh tay cầm búa đánh nhau với chằn tinh, trên vai vác công chúa để đưa công chúa lên khỏi hang động… Hơn nữa, động còn là nơi thờ Phật, không khí linh thiêng của cõi Phật như được hòa quyện và làm xoa dịu những oan hồn của 130 người dân Việt Nam vô tội bị bọn Pôn Pốt thảm sát năm 1978 tại chính động này, khiến sắc màu tâm linh ở đây được cộng hưởng một sắc thái hết sức đặc biệt. Đó có lẽ là cái khoảng cách giữa cái huyền hoặc và cái trần giới, giữa cái thiên đường và cái địa ngục, giữa xưa và nay được kéo gần đến mức không đường ranh giới. Có lẽ vì vậy, một khi đã đến nơi đây, mỗi người vì nhu cầu thưởng lãm hay vì nhu cầu tâm linh, đều không khỏi thực hành chiêm bái, với một mặc tưởng tâm linh xác thực để tìm một sự thư thái, an bình trong cõi tâm hồn.

     2.2. Sắc màu của không gian tâm linh biểu hiện sự ngưỡng vọng và linh thiêng hóa những giá trị cao cả của con người Việt Nam trong đấu tranh với thiên nhiên, xã hội và trong đời sống tình cảm

     Trong cuộc hành trình vượt thời gian, không gian để khẳng định những giá trị vĩnh hằng của truyền thống dân tộc, qua sự thẩm thấu và lan tỏa của từng giai thoại và truyền thuyết ở mỗi địa danh, sự hiểu, sự biết, sự lưu truyền những giá trị nhân văn thiêng liêng về chủ thể con người Việt Nam được bộc lộ khá đậm nét trên mọi phương diện của đời sống đấu tranh với thiên nhiên, xã hội cũng như đời sống tinh thần, tình cảm giữa các thành viên của mỗi cộng đồng trên cùng lãnh thổ. Theo đó, săc màu của không gian tâm linh trong địa danh ở đây chủ yếu biểu hiện ở hai phương diện:

     2.2.1. Sắc màu biểu hiện sự ngưỡng vọng và linh thiêng hóa những giá trị cao cả của con người Việt Nam trong cuộc đấu tranh với các thế lực thiên nhiên và xã hội

     Với mỗi địa danh, đằng sau mỗi giai thoại hay truyền thuyết tạo nên sắc màu tâm linh của nó, là thấp thoáng hình bóng những giá trị cao cả của một đất nước, của mỗi một cộng đồng dân tộc, của mỗi một con người Việt Nam, bằng sức mạnh, sự tài trí, lòng quyết tâm, vượt qua mọi gian nan, thử thách, chiến thắng mọi lực lượng đối nghịch, cả trong tự nhiên lẫn trong xã hội để bảo vệ và xây dựng cuộc sống. Bởi thế, sự hiểu, sự biết, sự lưu truyền những giá trị cao cả đó là bất diệt trong không gian và thời gian.

     Ngay tại Thăng Long-Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn vật, có biết bao nhiêu địa danh mang đậm màu sắc tâm linh, với biết bao giai thoại, truyền thuyết trong trí nhớ dân gian được lưu truyền, không chỉ cho biết sự hình thành tên gọi những địa danh cụ thể mà còn phản ánh quá trình khởi lập, ghi lại dấu ấn những cuộc đấu tranh khắc nghiệt với thiên nhiên và xã hội của con người ở vùng này. Chỉ riêng nói về một điểm cụ thể, đó là địa danh Hồ Tây. Trước khi địa danh này có tên gọi như ngày nay, ngoài những tên gọi như hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ mà mỗi tên gọi gắn với một hay nhiều truyền thuyết thú vị, chẳng hạn, tên gọi hồ Kim Ngưu là gắn với truyền thuyết về con trâu vàng do nghe tiếng chuông của ông Khổng Lồ ngỡ là tiếng gọi của trâu mẹ mà chạy từ Trung Quốc sang đây làm đất sụt lở tạo thành hồ; hay truyền thuyết về con trâu vàng ngày xưa ở núi Tiên Du bị một Pháp sư yểm bùa, chạy tới hồ đây để tắm. Nhưng thú vị nhất có lẽ là truyền thuyết gắn với tên gọi xưa nhất của Hồ Tây là Đầm Xác Cáo, bởi gợi nhắc đến sự tích Lạc Long Quân dâng nước biển dìm chết một con hồ ly tinh chín đuôi chuyên tác oai tác quái quấy nhiễu dân lành thuở nơi ấy còn là rừng rậm hoang vu và nhiều gò núi. Sau này, khi phủ Tây Hồ cùng đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh được tạo dựng thì nhiều truyền thuyết gắn với địa danh nơi đây mới phát huy hết vẻ huyễn hoặc, kì bí nhờ được quyện hòa trong tín ngưỡng bản địa khiến sắc màu tâm linh trở thành một yếu tố quan trọng bậc nhất của địa danh vốn được coi là một trong những chốn linh thiêng nhất Hà Nội từ xưa đến nay.

     Trên hành trình khởi lập, mở đất về phương Nam của cha ông ta ngày trước, sự lưu truyền những giá trị truyền thống nhân văn của dân tộc lại được phản chiếu trong nhiều truyền thuyết gắn với địa danh về một sự ứng phó với thiên nhiên dữ dằn và khắc nghiệt thở ban đầu. Chính sự khắc nghiệt hoang dã ấy đã tô đậm những giá trị cao cả của đời sống tinh thần từng tộc người trong quá trình khai phá lãnh thổ. Và trong trí nhớ dân gian, truyền thuyết về địa danh núi Nhạn sông Đà -nay là cụm thắng cảnh nổi tiếng, biểu tượng của Phú Yên- kể về một người khổng lồ được trời sai xuống lấp vùng trũng và lấn ra phía biển Đông, do muốn làm nhanh nên đã gánh núi nặng gấp đôi, gấp ba lần, đến nỗi khi gần tới biển, chiếc đòn gánh gãy đôi làm rơi xuống hai cụm núi Nhạn và núi Chóp Chài. Thực chất, đấy là câu chuyện nhằm siêu linh hóa quá trình khởi lập gian nan của con người đối với mảnh đất này. Bởi vậy, trên đỉnh núi Nhạn, người Chăm cho xây dựng Tháp Chàm, còn gọi là Tháp Nhạn và nó trở thành nơi thờ cúng linh thiêng và dường như họ muốn tạo nên một minh chứng vĩnh cửu cho sự hòa hợp linh thiêng giữa con người và trời đất trong quá trình tạo dựng nước non này.

     Bởi thế, trong sự hòa nhịp với sự hiểu, sự biết, sự lưu truyền những giá trị thiêng liêng bất diệt, mà tại vùng đất Tây Nguyên huyền thoại, sự thẩm thấu và lan tỏa của không gian tâm linh từ những giai thoại và truyền thuyết trong mỗi địa danh lại mang một sắc màu khá riêng. Đó là, tính chất trực cảm, tính chất nguyên sơ, dân dã bởi gắn với tín ngưỡng nguyên thủy là thờ nhiên thần nên sức lắng đọng, sự linh thiêng dồn tụ hết cả vào sông núi đại ngàn, thời gian về sau thì một số địa danh mới có thêm yếu tố thánh tích, Phật tích. Có lẽ, chính cuộc sống của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số quần tụ nơi đây còn đậm chất tự nhiên, hồn nhiên hoang dã như rừng cao núi sâu, nên tâm linh họ cũng hướng về sông, về núi, họ ngưỡng vọng Giàng, ngưỡng vọng Đất, ngưỡng vọng Mẹ thiên nhiên mà không quan tâm lắm đến cơ sở thờ tự, hay nói khác đi, cơ sở thờ tự đã được thiên nhiên tạo dựng và linh thiêng hóa từ chính hình sông thế núi. Đó là điều đặc biệt. Trường hợp địa danh chỉ thác Đatanla là một dẫn chứng.

     Trong trí nhớ lưu truyền của dân gian, ít nhất có ba truyền thuyết gắn với địa danh thác Đatanla – một trong những thác nước nổi tiếng nhất của vùng Tây Nguyên. Mỗi truyền thuyết cho chúng ta nhìn thấy những khía cạnh khác nhau trong sắc màu tâm linh ấy: có truyền thuyết cho chúng ta thấy vẻ đẹp của một bài ca về cuộc chiến chống lại các thế lực thiên nhiên hung dữ nhằm bảo vệ đất đai và cuộc sống đồng thời cũng là một bài ca về sự hợp nhất các dân tộc bản địa của vùng đất này; có truyền thuyết chỉ ra nguồn gốc hình thành và sự chuyển hóa tên gọi: Thác Đatanla (hay tên khác là Đatania) do các từ của tiếng K’Ho ghép lại: Đà-Tam-N’ha” có nghĩa là “nước dưới lá”; lại có truyền thuyết khoác lên tấm màn lịch sử, hé lộ một chút bóng dáng liên quan đến cuộc chiến tranh Chăm- Lạch – Chil vào thế kỷ XV – XVII, người Chăm từ Panduranga (Phan Rang) thường kéo lên tấn công người Lạt, người Chil ở cao nguyên Lang Biang để giành đất và bắt nô lệ. Khi nguy cơ thất bại cận kề vì thiếu nước uống thì người Lạt tình cờ phát hiện ra dòng thác này và nhờ đó đã chiến thắng người Chăm, bảo vệ được buôn làng. Từ đó bộ tộc Lạt đặt tên Đatanla để ghi nhớ sự kiện này với con cháu. Dù dưới góc độ nào thì sắc màu tâm linh bộc lộ qua những truyền thuyết gắn với những địa danh ở đây cũng nhắc nhớ về cuộc chiến chống lại các thế lực thiên nhiên hung dữ và các thế lực xã hội nhằm bảo vệ đất đai và cuộc sống của các dân tộc ít người trên lãnh thổ.

     Cùng theo dòng chảy của sự lưu truyền những giá trị linh thiêng cao cả đó, hàng loạt địa danh được sản sinh trong cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc vào giữa những thập niên của thế kỉ XX đã phản chiếu sắc màu được thiêng hóa, thần thánh hóa. Tự thân mỗi tên gọi địa danh được linh thiêng hóa ấy đã là mỗi bài ca hào hùng, mỗi truyền thuyết hào hùng về con người và đất nước Việt Nam trong máu lửa chiến tranh. Đó là một Ngã Ba Đồng Lộc với huyền thoại bất tử về 10 cô gái thanh niên xung phong hi sinh ở độ tuổi trăng rằm, đó là một Thành cổ Quảng Trị, vùng “Đất tâm linh”, nơi trộn lẫn máu xương của hàng ngàn chiến sĩ trong trong trận đánh 81 ngày đêm vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, đó là Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, nơi yên nghỉ vĩnh hằng của hàng vạn đồng chí, đồng đội đã hy sinh trong những năm kháng chiến chống Mĩ để đến hôm nay, truyền thuyết về cây bồ đề thiêng tỏa bóng ấm áp ôm trọn Đài tưởng niệm được coi như là một “phúc âm” của các anh hùng liệt sỹ gửi lại trần thế đã trở thành biểu tượng linh thiêng của vùng đất tâm linh vào hàng bậc nhất này của đất nước.

     2.2.2. Sắc màu biểu hiện sự linh thiêng hóa đời sống tinh thần, tình cảm cao cả của con người Việt Nam

     Đời sống tinh thần, tình cảm của con người Việt Nam, xưa nay, vốn như một dòng chảy xuyên suốt kí ức của lịch sử dân tộc, chảy qua tâm hồn mỗi người, lắng sâu vào tâm thức của từng cộng đồng sinh sống trên cùng lãnh thổ. Bởi thế, sắc màu của không gian tâm linh từ những giai thoại và truyền thuyết gắn với mỗi địa danh về đời sống tinh thần, tình cảm mang tính chất thiêng liêng hóa của người Việt được thắp ánh sáng vĩnh cửu nhờ sự nối mạch và nuôi dưỡng từ cội nguồn của văn hóa tín ngưỡng truyền thống. Mà cội nguồn, từ tâm thức, trước hết, đó là thờ tiên tổ, là thờ Mẫu.

        2.2.2.1. Sắc màu biểu hiện sự linh thiêng hóa đời sống cao cả của tín ngưỡng thờ Tổ, thờ Mẫu

     Trong tâm thức dân tộc, với những địa danh có không gian tâm linh biểu hiện về tín ngưỡng thờ Tổ, trước hết, là câu chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ trong truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên. Có thể nói, đây là huyền thoại lập quốc đẹp bậc nhất và là bài ca tâm linh đẹp nhất hướng về nguồn cội, hướng về miền đất Tổ. Thông qua truyền thuyết, sợi dây tâm linh được nối kết giữa huyền sử, dã sử và chính sử khiến con cháu ngàn đời sau còn biết được một anh hùng làng Gióng, sau tôn là Phù Đổng Thiên Vương, đánh thắng giặc Ân xâm lược ở đời thứ 5 là đời Hùng Huy Vương, một nàng Tiên Dung ở cõi trời lấy Chử Đồng Tử ở cõi đất vào đời thứ 18 là Hùng Duệ Vương để cùng lập nên đạo Tiên là đạo xưa nhất ở nước ta. Rồi một cuộc hôn nhân giữa thần Tản Viên và công chúa Ngọc Hoa trong chiến tranh giữa vua Hùng và vua Thục, để sau đó là một loạt chuyện Tản Viên dạy dân biết đủ các nghề, khiến cho đất nước ngày thêm thái bình, thịnh trị. Sự bất tử của các vị thánh tổ cũng là sự bất tử của những giá trị tâm linh in đậm trong dòng chảy lưu truyền của tâm thức người Việt, là sự tri ân các vua HùngQuốc tổ có công dựng nên nhà nước đầu tiên, tổ tiên chung của dân tộc Việt Nam.

     Chính sự thăng hoa của những sắc màu trong không gian tâm linh qua hàng trăm, hàng ngàn địa danh chỉ đền thờ các vua Hùng ở khắp mọi vùng đất nước mà chính nhờ thế, UNESCO đã lấy đó làm một trong những cơ sở để công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

     Bên cạnh đó, trong sự lưu truyền của trí nhớ dân gian, sự thăng hoa bởi sắc màu của không gian tâm linh cũng được biểu hiện qua biết bao giai thoại và truyền thuyết gắn với địa danh của tín ngưỡng thờ Mẫu. Hầu như khắp mọi vùng trong cả nước đều có các địa danh chỉ công trình xây dựng thờ Thánh Mẫu- còn gọi là Bà Chúa Liễu Hạnh, một trong bốn vị “tứ bất tử”, người được dân gian xem là một mẫu quyền năng vô lượng và phân thân thành các thần linh cai quản muôn mặt của vũ trụ: Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ cai quản trên trời, Mẫu Thượng Ngàn cai quản núi rừng, Mẫu Thủy (hay Mẫu Thoải) cai quản
trên sông biển- thể hiện sự ngưỡng mộ chân thành coi trọng người mẹ trong văn hóa truyền thống của dân tộc. Những câu chuyện truyền thuyết kể về Thánh Mẫu, vốn là công chúa của Ngọc Hoàng thượng đế, do đánh rơi chén ngọc đựng rượu chúc thọ đã phải xuống trần gian đầu thai làm con gái thường dân. Sau khi lấy chồng, sinh con rồi trở về trời, rồi giáng trần mấy lần để gặp người thân, hay hiển linh để cứu nhân độ thế, hoặc trừng phạt kẻ bất lương và hay du ngoạn khắp chốn danh lam, giáng bút, đề thơ. Đấy là những câu chuyện mang đầy tính chất linh thiêng, thần thánh hóa vốn phản ánh bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt truyền thống.

     Điều khá đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu không chỉ được biểu hiện trong hình thức thiêng hóa các cơ sở thờ tự mà còn biểu hiện trong sự thần thánh hóa tính chất kết hợp đan xen với các hình thức cụ thể của những yếu tố tôn giáo khác. Vì vậy, trong sự lưu truyền của trí nhớ dân gian, các truyền thuyết gắn với những địa danh này thường có sự tổng hợp, đan cài với nhiều yếu tố, tức vừa mang yếu tố bản địa vừa mang yếu tố tôn giáo khác, đặc biệt là Phật giáo. Chẳng hạn, ai cũng biết chùa Dâu ở Bắc Ninh là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam và là trung tâm hệ thờ Tứ Pháp cầu mưa, nổi tiếng linh thiêng nhất nước. Những nhiều truyền thuyết gắn với địa danh này như truyền thuyết bà Trắng bà Đỏ chùa Dâu, truyền thuyết Ghênh đẻ Khe nuôi, truyền thuyết Đường vào phủ chúa đều cho thấy các sắc màu khác nhau trong không gian tâm linh vừa thấm đẫm tính chất bản địa vừa thấm đẫm tính chất tôn giáo ngoại lai.

     Ở đây, trong sự lưu truyền những giá trị truyền thống văn hóa của trí nhớ dân gian, đáng chú ý nhất là tính chất kì bí, thần thánh hóa trong truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương- một nhân vật liên quan đến sự tích Phật giáo Việt Nam khi đạo Phật mới truyền sang đất Việt. Theo đó, sự kì bí, thần thánh hóa được biểu hiện qua nhiều chi tiết: kì bí trong sự thọ thai và sinh hạ khác thường của Phật Mẫu Man Nương trong thời gian học đạo tại chùa Linh Quang của vị cao tăng người Ấn Độ, kì bí trong việc vị cao tăng dùng gậy phép thuật bỏ đưa trẻ vào cây đa cạnh chùa, sau hóa thành khối đá mà thợ tạc tượng của Sĩ Nhiếp vứt bỏ xuống sông rồi lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp muốn vớt lên mà không tài nào vớt được. Kì bí trong việc Man Nương đi thuyền ra giữa sông thì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng, nên được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng). Điều đáng nói ở đây là, đằng sau tính chất kì bí, huyễn tưởng, thần thánh ấy ẩn chứa một hiện tượng tâm linh thú vị, một hiện tượng mang dấu ấn của sự giao thoa, tiếp biến văn hóa. Dấu ấn giao thoa đó không phải là hiện tượng riêng lẻ mà có tính chất phổ biến ở nhiều vùng được lưu giữ trong nhiều địa danh mang những yếu tố tôn giáo. Do vậy, sắc màu của không gian tâm linh ở đây là sắc màu Phật tích, sắc màu tôn giáotín ngưỡng.

     Trường hợp địa danh tháp Po Nagar, tên đầy đủ là Po Ina Nagar, hay còn gọi là Tháp Bà, ở Nha Trang cũng vậy, thông qua nhiều truyền thuyết của người Chăm và của cả người Việt gắn với ngôi đền tháp này được lưu truyền trong trí nhớ dân gian, đều phản ánh sự giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Chăm Pa và văn hóa Ấn Độ, giữa tín ngưỡng bản địa Chăm và Hinđu giáo. Với người Chăm, truyền thuyết cho rằng, sự xuất hiện của Po Nagar- nữ thần sinh ra do bọt nước biển và áng mây trời – là một sự kì lạ. Sự kì lạ của vị thần có nhiều quyền năng phép thuật và có đến 97 ông chồng nhưng chỉ sinh được 38 người con gái, sau đều thành thần, trong đó hai người con được người dân vùng Phan Rang và Phan Thiết tôn thờ. Điều đó càng làm tăng thêm tính chất kì bí, linh thiêng của các đấng quyền năng và cũng tức là của những địa danh tâm linh nơi đây.

     Điều đáng lưu ý là, trong sự lưu truyền những giá trị truyền thống văn hóa của trí nhớ dân gian thì tính chất kì bí, linh thiêng của các đấng quyền năng trong giai thoại và truyền thuyết về những địa danh bao giờ cũng được kết nối với ý thức bản địa, ý thức nguồn cội trong sự liên hệ với lịch sử dân tộc. Bởi vậy mà, đối với người Việt, vùng đất Kauthara (Khánh Hòa) vốn thuộc về người Việt, nên nữ thần Po Nagar cũng trở thành thần Mẹ xứ sở với tên gọi là Thiên Y A Na. Theo đó, hình ảnh về Thiên Y A Na Thánh Mẫu xuất hiện trong kí ức của người Việt nơi đây vừa linh thiêng vừa gần gũi, vừa ở cõi thực vừa ở cõi hư, qua câu chuyện về bà vốn là một tiên nữ giáng trần, thuở nhỏ được vợ chồng người tiều phu già chăm sóc, sau hóa thân và kết duyên với Thái tử Trung Hoa, rồi trở về cố quốc, báo hiếu cha mẹ nuôi, dạy dân làng phép tắc, lễ nghi, công việc cày cấy, kéo sợi dệt vải, rồi cùng chim hạc bay về cõi tiên, được nhân dân xây tháp, tạc tượng phụng thờ. Như vậy, trong sự lưu truyền những giá trị truyền thống văn hóa của trí nhớ dân gian, nếu vén lên bức màn của sự siêu linh thần thánh từ những giai thoại truyền thuyết ấy, ta sẽ thấy rõ bóng dáng của lịch sử một dân tộc, thấy rõ dấu vết văn hóa tộc người và cả các mối quan hệ xã hội khác liên quan. Điều đó chứng tỏ, trong những biểu hiện cụ thể qua truyền thuyết ở mỗi địa danh, sự nối mạch với tín ngưỡng tôn giáo bản địa, tính chất siêu linh thần thánh đã có dịp lắng tụ, quyện hòa với những đặc điểm về tâm hồn, tình cảm của người dân Việt nên nó luôn được duy trì và tỏa sáng trong chiều dài của thời gian và trong chiều rộng của không gian khiến những yếu tố nội sinh và ngoại sinh của văn hóa dân tộc luôn để lại dấu ấn trong mỗi giai thoại và truyền thuyết gắn với hệ thống địa danh Việt Nam.

        2.2.2.2. Sắc màu biểu hiện sự linh thiêng hóa đời sống tình cảm cao cả của con người Việt Nam

     Trong sự lưu truyền những giá trị truyền thống văn hóa của trí nhớ dân gian, có rất nhiều truyền thuyết thể hiện một cách sâu sắc đời sống tình cảm của mỗi con người thuộc từng dân tộc gắn với hàng ngàn, hàng vạn địa danh ở khắp mọi miền tổ quốc. Chúng được thiêng liêng hóa, thần thánh hóa khiến chúng trở thành những bài ca bất tử về tình cảm vợ chồng, tình cha con, tình yêu đôi lứa: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu/ Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”. Câu chuyện của địa danh núi Vọng Phu hay hòn Trống Mái được nhắc ở đây gắn với câu chuyện về mối tình giữa nàng tiên nữ và chàng Ngư Phủ đã làm nên bài ca rất đẹp về tình cảm vợ chồng chung thủy. Bởi thế nên, sự xuất hiện của nhiều hòn Vọng Phu trong suốt chiều dọc đất nước như ở Nghệ An; ở Đắk Lắk, ở Bình Định… đều hắt lên ánh sáng của ý nghĩa nhân văn cao cả, thể hiện ước mơ, khát vọng bao đời của nhân dân địa phương về một cuộc sống yên bình, no ấm, hạnh phúc. Điều đáng nói là, qua hình tượng hòn Vọng Phu, người Việt muốn lưu truyền những ý nghĩa tâm linh, những sự suy tưởng cao đẹp về gia đình, những triết lí về con người trong hoàn cảnh gian nan. Bởi vậy, trong dòng chảy của sự lưu truyền ý nghĩa tâm linh và suy tưởng ấy, người Việt muốn có một cái kết đẹp về sự chờ đợi, sự thủy chung trọn vẹn đối với tình nghĩa vợ chồng, nên trong truyền thuyết vùng núi Sập, tỉnh An Giang, người dân nơi đây tin rằng người chồng trong câu chuyện hòn Vọng Phu sau khi biết được nguồn căn về vợ mình, đã bỏ đi khắp nơi, rồi lại đi tiếp xuống sống với một bộ lạc ở ngoài thành Óc Eo, chiều chiều nhớ vợ con, người chồng lên đỉnh núi trông về chốn cũ sau dần dần hóa đá, cảm kích trước tấm lòng ấy, người dân địa phương đã đặt tên núi đó là núi Vọng Thê. Có thể nói, chính cảm thức tâm linh về tình nghĩa vợ chồng trong đời sống thực đã thăng hoa và được đẩy lên mức thiêng liêng hóa, tạo nên một sắc màu trong không gian tâm linh huy hoàng và đẹp đẽ.

     Cũng trong dòng chảy lưu truyền tâm linh ấy, có một truyền thuyết rất đẹp gắn khác gắn với một danh thắng nổi tiếng của tỉnh Hà Giang – đó là núi Đôi hay còn gọi là núi Cô Tiên gắn với huyền thoại tiên nữ Hoa Đào xuống hạ giới lấy người phàm trần, khi bị bắt quay lại về trời, thương chồng một mình nuôi con thơ vất vả, nàng đã bỏ lại đôi nhũ của mình dưới hạ giới cho con bú, sau biến thành hai quả núi dáng hình bầu vú mẹ căng tròn. Từ sự kết hợp cảm hứng được thổi hồn từ môtip núi đôi ở những nơi khác nhau, nhà thơ Vũ Cao đã tạo nên bài thơ “Núi Đôi” với bao nỗi ám ảnh day dứt, xót xa bất tận: “Lối ta đi giữa hai sườn núi/ Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi/ Em vẫn đùa anh: sao khéo thế/ Núi chồng núi vợ đứng song đôi! …Núi vẫn đôi mà anh mất em!”.

     Hay ở vùng đất Tây Nguyên huyền thoại, trong dòng chảy của sự lưu truyền những giá trị truyền thống về tình nghĩa vợ chồng được biểu hiện cụ thể và đậm đặc nhất trong những truyền thuyết linh thiêng gắn với tên núi, tên sông. Núi, chẳng hạn, có núi Ông, núi Bà (tức núi Liang và núi Biang). Sông, chẳng hạn, có sông Chồng, sông Vợ (tức sông Krông Nô và sông Krông Ana). Thác, chẳng hạn, có thác Vợ, thác Chồng (tức (tức thác Đray Nur và thác Đray Sáp). Nhưng có lẽ hay nhất và nổi tiếng nhất là truyền thuyết về địa danh chỉ hai ngọn núi Ông và núi Bà, tức LangBiang gắn liền với một truyền thuyết nói về mối tình giữa chàng K’Lang người Lát và nàng H’Biang, người Chil chỉ vì luật tục khắt khe của buôn làng ngăn cản mà nàng H’Biang đã chết thay K’Lang. Và sau cái chết của hai người, cha Biang- tù trưởng bộ tộc, đã đứng ra thống nhất các bộ tộc thành một dân tộc có tên là K’Ho; còn truyền thuyết thứ hai thì chính thức được khắc trên bia đá tại đỉnh núi: “Ngày xưa tại vùng núi này, có người con trai tên Lang, tù trưởng bộ tộc Lát, thương người con gái tên Biang, con gái tù trưởng bộ tộc Chil. Do khác bộ tộc nên nàng Biang không cưới được chàng Lang, vì vậy hai người đành lấy cái chết để giữ trọn tình và phản đối luật tục khắt khe. Khi Lang và Biang mất, cha của Biang hối hận đã thống nhất các bộ tộc người Lát, Chil, Sré…thành chung một dân tộc K’Ho. Từ đó thanh niên nam nữ các bộ tộc dễ dàng yêu nhau, cưới nhau. Mộ hai người dần trở thành hai ngọn núi cao nằm cạnh nhau và dân làng đặt tên cho ngọn núi này là núi LangBiang”. Như vậy, hai câu chuyện, một địa danh, đều tỏa lên sắc màu linh thiêng của tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng son sắt và được cộng hưởng trong ý nghĩa tâm linh về sự hợp nhất các dân tộc bản địa. Chính vì vậy, hơn ở đâu hết, sắc màu tâm linh thấm vào hồn sông núi, quyện tụ vào không gian thiêng của cỏ cây, đất trời nơi được mệnh danh là “nóc nhà” Đà Lạt, khiến mỗi người khi đến địa danh này, đều được hít thở và lắng vào hồn sâu không khí linh thiêng đó.

     Bên cạnh đó, trong dòng chảy của sự lưu truyền những giá trị truyền thống về tình nghĩa phụ tử, tình nghĩa cha con cũng là một giá trị được linh thiêng hóa trong nhiều giai thoại truyền thuyết gắn với nhiều địa danh tạo nên sắc màu của không gian tâm linh rất đẹp đẽ và rất đặc biệt. Ở cuối trời phương Nam, nơi mảnh đất đây nắng đầy gió, có nhiều địa danh đẹp gắn với nhiều truyền thuyết đẹp, mang ý nghĩa linh thiêng này. Trường hợp địa danh hòn Phụ Tử là một minh chứng rõ ràng nhất. Câu chuyện kể rằng, xưa kia ở vùng biển Hà Tiên có con thuồng luồng rất hung dữ, hay đánh đắm thuyền bè để ăn thịt ngư dân. Bên chân ngọn An Hải Sơn, cạnh chùa Hang, có hai cha con làm nghề chài lưới, người cha quyết lòng tiêu diệt con ác thú, nên tự tẩm thuốc độc vào mình rồi dụ con ác thú ăn khiến nó trúng độc chết. Nhưng người con vì ôm xác cha khóc thương mà chất độc từ người cha thấm qua khiến người con chết theo. Cảm thương trước cái chết bi tráng của hai cha con, trời nổi giông bão, xác hai cha con bỗng hóa thành thành hai ngọn đá lớn và ngọn đá nhỏ, người đời xót thương, tưởng vọng và gọi tên đó là hòn Phụ Tử. Đây có lẽ là truyền thuyết đẹp bậc nhất về tình cha con và cũng là sắc màu tâm linh đẹp bậc nhất trong không gian tâm linh của địa danh.

3. Thay lời kết luận

     Từ sự biết, sự hiểu, sự lưu truyền những giá trị truyền thống dân tộc, thông qua những giai thoại và truyền thuyết gắn với địa danh, với những sắc màu linh thiêng hóa, thần thánh hóa, nhiều giá trị mang tính truyền thống tín ngưỡng bản địa và những giá trị tôn giáo và cả những giá trị giao lưu, tiếp biến văn hóa với các dân tộc, các quốc gia khác trong diễn trình lịch sử của dân tộc đã được bộc lộ, được cộng hưởng và lan tỏa. Điều đó cũng chứng minh có không gian tâm linh hiện hữu trong địa danh, tức khẳng định rằng, bên cạnh hai chiều vật lí, địa danh còn có chiều thứ ba, là chiều tâm linh. Do đó, mỗi địa danh, đồng thời, vừa đóng vai trò là điểm hội tụ văn hóa tâm linh, vừa đóng vai trò là điểm kết nối với các thành viên trong xã hội, kết nối giữa các thế hệ, với sức lan tỏa không chỉ ở trong khu vực địa phương mà còn lan tỏa ra khu vực quốc gia và quốc tế. Chính nhờ đó, nhiều địa danh đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của địa phương, của vùng, của dân tộc, trở thành niềm tự hào của người Việt, văn hóa Việt. Qua ánh xạ của những sắc màu của không gian tâm linh trong địa danh, bản sắc văn hóa tinh thần của dân tộc phần nào được lộ diện. Sự hiện hữu của những yếu tố linh thiêng hóa, tâm linh hóa trong giai thoại và truyền thuyết ở mỗi một địa danh, thực sự đã gắn bó, hòa quyện vào đời sống tinh thần người Việt, đáp ứng nhu cầu con người từ hai phương diện niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo và sự chuyển hóa tâm thức, thực hành các nghi lễ truyền thống. Đây chính là cơ sở tạo nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn, thu hút, sức lan tỏa đặc biệt của chiều văn hóa tâm linh trong địa danh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đoàn Văn Chúc (1978), Văn hóa học, Nxb Văn hóa Thông tin.

2. Lê Trung Hoa (2006), Địa danh học Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chi Minh.

3. Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Trẻ.

4. Nguyễn Đăng Duy (2009), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa Thông tin.

5. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân giã Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

6. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa thông tin.

7. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chi Minh.

8. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Tổng tập văn học dân gian người Việt tập 4 – Truyền thuyết dân gian người Việt, Nxb Khoa học xã hội.

9. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới Folklore, Nxb Thanh Niên.

10. Vũ Ngọc Khánh (2007), Lịch sử địa danh Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Số 21 – Tháng 6/2014

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Sắc màu tâm linh trong địa danh Việt Nam qua yếu tố giai thoại và truyền thuyết (Tác giả: TS. Nguyễn Đăng Khánh)