Tộc họ và những biến đổi trong sinh hoạt tộc họ của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận (Phần 2)

Tác giả bài viết: LÝ HOÀNG NAM
(Ban Dân vận Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh)

     Về tang chế: Người Chăm dù theo tôn giáo nào, sau khi chết cũng được an táng vào nghĩa địa, tuy cách an táng và hình thức nghĩa địa tộc họ có khác nhau. Người Chăm Bàlamôn truyền thống, chủ yếu theo tục hóa táng thi thể người chết, ngoại trừ người chết yểu dưới 14 tuổi. Trong quy trình hỏa táng, trước khi thi thể bị thiêu thành tro thì 9 miếng xương trán của người chết được lấy lại làm di cốt bỏ vào hộp “klaong” làm bằng đồng thau, bạc hoặc vàng tạm thời bảo quản thờ phụng, chờ trong tộc họ có đủ số lượng di cốt nam nữ theo quy định để tộc họ tổ chức đợt lễ nhập “kut” thì di cốt này được táng vào chung trong “kut” – nghĩa trang tộc họ.Khi di cốt đã nhập vào nghĩa trang tộc họ thì cả tộc họ thờ chung và cúng kính bằng một lễ tục chung cho cả kut, không còn được gia đình thờ
riêng nữa.

     Hỏa táng là một tập tục cầu kỳ, thời gian từ 3 – 5 ngày, chi phí cao, do đó tuy trước hết là việc của gia đình người chết, nhưng muốn thực hiện không thể không có sự giúp đỡ của cả tộc họ. Ngoài ra, còn liên quan mối quan hệ tộc họ vào “kut”. “Kut” – nghĩa địa tộc họ là nơi chôn vĩnh viễn các di cốt người quá cố trong cùng một tộc họ, là địa điểm để tộc họ thực hiện một hình thức thờ cúng tổ tiên – là lễ cúng kut hay lễ ngap phwơr theo định kỳ ít nhất 3 năm một lần, là biểu hiện cụ thể rõ nhất về quan hệ tộc họ của người Chăm Bàlamôn. “Kut” được lập trên một miếng đất khoảng 100m2 có địa thế cao ráo thường là trong khu ruộng đất của tộc họ, để dễ chăm nom, bảo quản. Tại đó chôn dựng đứng 3 hoặc 5 tảng đá trơn có hình dạng giống biểu tượng linga, cao 50-60 cm, phần ló lên khỏi mặt đất cao khỏang 20-30 cm, thành một hàng cách đều nhau theo hướng đông – tây, tiếng Chăm gọi là “patơu kut”. Trong đó, tảng đá chính giữa được dựng cao hơn hết là “Pôdi” (thần chủ). Đây là tảng đá tượng trưng, phía dưới không chôn gì. Còn các tảng đá hai bên, phía dưới chân đá, để chôn chung các di cốt hỏa táng (9 miếng xương trán) các người của tộc họ đã quá cố, với sự phân biệt, thuộc về nam giới thì di cốt chôn chung dưới tảng đá phía tây “pô di” gọi là “patơu kamei”. Nếu trong tộc họ chỉ là người dân thường thì tộc họ đó lập “kut” chỉ với 3 tảng đá như vậy. Còn tộc họ nào có chức sắc tôn giáo thì “kut” phải dựng 5 tảng đá, trong đó ngoài 3 tảng có chức năng như “kut” thường, còn có thêm hai tảng: 1 tảng về phía đông ngoài cùng, đứng đầu hàng, ở dưới để chôn chung di cốt các vị chức sắc thầy xế “Prô Passeh” và một tảng bên cạnh tảng “Pôdi” về phía tây, ở dưới để chôn chung di cốt các bà Bóng “muk Pajuw” của tộc họ. Đó là gian chính hay là “kut” chính. Có dòng họ chỉ có “kut” chính, nhưng cũng có dòng họ có thêm “kut” phụ. Kut phụ ở gian phía tây của kut chính và trụt ra phía sau so với dãy “kut” chính, được ngăn cách với “kut” chính bằng một phiến đá chắn, tiếng Chăm gọi là “patơu pachơng”. “Kut” phụ đặt hai tảng đá để chôn di cốt người chết không lành trong dòng họ, một cho nam giới và một cho nữ giới; vì di cốt những người này không thể chôn chung cùng với di cốt người chết lành được.

     Việc lập “kút”, nhập di cốt lần đầu cũng như lần nhập về sau phải tiến hành các lễ thức phức tạp, cầu kỳ và chi phí khá cao, là việc chung của cả tộc họ ràng buộc nhiều gia đình thành viên, đòi hỏi phải có sự đồng bộ, thống nhất trong tộc họ mới thực hiện nổi do vậy mà từ trước tới này, với những tộc họ lập được “kut” thì mỗi tộc họ chỉ có một “kut” duy nhất, cho dù có nhiều dòng “talei gơp”, nhiều “chiêt atuv”; và không phải tộc họ nào tuy có đủ dư số lượng di cốt nam nữ cũng có thể lập được “kut”. Qua điền dã của chúng tôi tại địa bàn nghiên cứu, toàn xã Phan Hiệp (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) chỉ có 14 kut và có một tộc họ trải qua hàng mấy mươi năm hiện bảo quản, thờ phụng trên trăm di cốt, đang chuẩn bị lập “kut” mới đầu tiên vào cuối tháng 6 năm 2005.

     Tuy hình thức thờ phụng nghĩa trang tộc họ “kut” khá cầu kỳ và tốn kém như vậy nhưng đối với người Chăm Bàlamôn được hỏa táng và được vào “kut” sau khi qua đời luôn là ước vọng sẽ được về với tổ tiên ông bà, đồng thời sự yên tâm, thỏa mãn của những người thân còn sống trong thực hiện đền ơn đáp nghĩa, báo hiếu với người quá cố. Bởi vì, tập tục này chỉ nặng ở lúc đầu khi lập và nhập “kut”, còn các lần thực hiện lễ cúng định kỳ “ngap phwơr”, dù cho số lượng di cốt đã được táng nằm trong kut là bao nhiêu đi nữa thì lễ thức và chi phí cũng không thay đổi theo mà cố định theo một chế độ tín ngưỡng, hơn nữa đây là việc chung của cả tộc họ nên đối với mỗi gia đình thành viên thì quá nhẹ nhàng và đơn giản.

     Trong trường hợp tộc họ nào chưa lập được kút thì gia đình nào có trách nhiệm bảo quản thờ phụng di cốt người quá cố của gia đình ấy, hoặc do chủ từng dòng “talei gơp” hoặc chủ cả tộc họ chịu trách nhiệm chung. Trước đây các di cốt này thường chôn dấu tại khu vực ruộng tộc họ, nên thường hay bị bọn trộm cắp đào lấy các “klaong” có giá trị cao, làm cho di cốt dễ bị thất lạc; nay thì được bảo quản trong các hồ xây bằng xi măng có nắp đậy đặt trong khuôn viên nhà ở và các “klaong” làm bằng vật liệu giản đơn nhưng chắc chắn nên không còn tình trạng mất cắp,thất lạc nữa.

     Đó là nói về những thành viên trong gia đình quan hệ cùng một tộc họ. Còn đối với những người tuy là thành viên của gia đình nhưng lại khác tộc họ, là những ông chồng, ông cha, những “urang parat”, thì khi chết đi, gia đình vợ con ông ta phải trực tiếp lo liệu việc hỏa táng thi thể ông ta, còn bà con tộc họ hai bên đến giúp sức và phúng điếu. Sau hỏa táng, di cốt của ông ta do vợ con bảo quản, cúng kính, chờ đưa vào kút của tộc họ ông ta trong đợt nhập kut gần nhất, chứ không thể đưa vào kut của tộc họ vợ con được. Trong trường hợp tộc họ của ông ta chưa có kut thì gia đình vợ, con gái ông ta có thể giữ thờ phụng di cốt của ông ta nếu như có nhu cầu đồng thời đó cũng là trách nhiệm, nhưng cũng chỉ được đến đời con gái ông ta mà thôi chứ không được đến đời cháu. Rất hiếm thấy trường hợp vừa mãn ba năm sau lễ hỏa táng mà gia đình vợ con đã vội đưa di cốt của chồng, cha trở về tộc họ ngay, ngoại trừ trường hợp tộc họ cần để nhập kut tộc họ. Đúc kết cho tập tục trên, người Chăm nói về đàn ông Chăm: “Hadiip ngap drơp ka urang, Mưtai ba talang ka gơp” (Sống thì tạo của cho người, chết thì xương cốt trở về tộc họ).

     Trường hợp gia đình vợ quá nghèo không thực hiện hỏa táng được thì tộc họ không thể làm ngơ để vợ con ông ta theo tập tục “jap brah” (đám chôn một đêm nằm, chỉ dành cho người chết yểu dưới 14 tuổi) chôn vĩnh viễn được, bởi vì như thế ông ta sẽ không thể nào có di cốt được. Tộc họ sẽ vận động gia đình vợ ông ta nếu thấy chưa đủ sức lo hỏa táng ngay thì chôn gởi tạm thời, hẹn thời gian ít nhất 3 năm sẽ lo bốc lên hỏa táng. Đến thời điểm hẹn hoặc kéo dài thêm chút gì đó, tộc họ nhắc nhở, nếu gia đình vợ lo liệu được dự tính bốc lên làm lễ hỏa táng thì tộc họ cả hai bên sẽ tham gia chung sức các bước chuẩn bị cho đến tiến hành và có trách nhiệm phúng điếu. Còn nếu gia đình vợ con hơi khó khăn thì có thể bước đầu bà con tộc họ có điều kiện khá giả tạm ứng trước để sau gia đình vợ con thanh toán lại. Chỉ khi nào chờ quá lâu, tộc họ cảm thấy gia đình vợ con lo không nổi hoặc không muốn lo nữa thì lúc đó tộc họ mới đứng ra lo liệu kinh phí tổ chức hỏa táng cho ông ta, lưu giữ thờ phụng di cốt để chờ dịp đưa vào kut. Trường hợp này là cá biệt, rất ít xảy ra. Nói chung là tộc họ, bà con bên chồng chủ yếu là động viên tình cảm, trách nhiệm và tạo điều kiện hỗ trợ để gia đình vợ con đồng tình, tự nguyện lo cho chồng, đồng thời cũng là thành viên của tộc họ chồng đủ lễ thức tôn giáo khi quá cố theo ý nguyện của tộc họ chứ ít khi có tình trạng gây áp lực bắt buộc.

     Khi đưa di cốt chồng, cha trở về bên tộc họ của ông ta để bảo quản, thờ phụng hoặc làm lễ nhập kut, gia đình vợ con ông ta tổ chức đưa tiễn trang trọng tương xứng như khi trước trong lễ cưới lúc ông ta lấy vợ, được tộc họ của ông ta tiễn đưa về ở với vợ.

     Người Chăm Bàni sau khi chết thì thi thể được chôn vĩnh viễn tại nghĩa địa tộc họ bên mẹ của người chết đó. Nghĩa địa tộc họ Chăm Bàni, tiếng Chăm gọi là “ghur rak”. “Ghur rak” thường là khu động cát, cách xa các làng cũ khoảng vài cây số. Mỗi tộc họ có một khu riêng. Trong mỗi khu “ghur rak” của một tộc họ, mộ người chết chôn được làm dấu bằng hai viên đá đặt ở 2 phía đầu và chân người chết, đầu hướng bắc, chân hướng nam, thi thể nằm nghiêng mặt ngoảnh nhìn về hướng tây, hướng của thánh địa Hồi giáo; người chết sau chôn kế cận người chết trước, có rất nhiều cặp đá tượng trưng cho các lớp người chết được chôn bên dưới hình thành nhiều dãy hàng đá xếp thẳng hàng song song nối dài theo chiều đông – tây. Mỗi tộc họ có một khu nghĩa địa rộng khoảng 1000 đến 3000m2 tùy theo tộc họ lớn nhỏ. Ngoài ra, bên cạnh dãy mộ chính còn có dãy mộ nhỏ nằm song song, các hòn đá 2 đầu mộ nhỏ hơn, số lượng mộ ít hơn. Đó là dãy mộ phụ của mỗi khu “ghur rak”, dành chôn những người trong tộc họ chết không lành. Tùy theo số lượng người chết chôn của tộc họ nhiều hay ít mà hình thành phạm vi “ghur rak” của tộc họ đó.

     Tại khu “ghur rak” hàng năm tộc họ và gia đình tiến hành lễ tảo mộ. Lễ tảo mộ chỉ diễn ra chưa đầy một buổi sáng, tùy theo tộc họ lớn nhỏ, ở xa, ở gần mà chọn thời gian thích hợp trong phạm vi 3 ngày liên tiếp nhưng trễ nhất chỉ đến buổi sáng ngày đầu tiên của tháng Ramưwan (Hồi lịch).

     Như vậy để bảo đảm thuần khiết cho tộc họ ở thế giới bên kia cũng như ràng buộc trách nhiệm nghĩa tình của người thân trong gia đình hoặc tộc họ đối với người sắp từ giã trần thế, người Chăm cả hai đạo đều có quy định nghiêm ngặt đối với tư thế người chết. Người Chăm quan niệm chết không lành “mưtai lihin” là lúc tắt thở không ai biết, chết không tại nhà gọi chung là “mưtai bhaw” hoặc chết bất đắc kỳ tử, chết đuối, bị sét đánh, tai nạn xe cộ, cây đè, thú dữ bắt… theo quan niệm của người Chăm, những người chết như vậy linh hồn của họ không được bình thường, có thể gây ảnh hưởng xấu hoặc gây tai họa cho tộc họ. Người nào chết không lành vừa phải chịu làm lễ đuổi tà “tiap kalơng” đối với thi thể người chết đó, lại không được chôn vào gian, khu chính thức mà chỉ được chôn ở khu vực phụ của kut hoặc “ghur rak”, tiếng Chăm gọi là “đih takai laiy” (nằm cạnh chân). Ngoài ra, con cái của những người có hôn nhân không đồng dân tộc – tôn giáo, những người mà lúc sống cơ thể bị khuyết tật thì khi chết cũng không được táng vào khu chính trong kut hoặc “ghur rak”. Khi người thân của mình phải “đih takai laiy” là niềm day dứt, tủi thân cho người còn sống đã không làm tròn trách nhiệm với người đã chết, vì khi tiến hành các lễ cúng thờ tại kút cũng như các lễ thức trong lễ tảo mộ tại “ghur rak” các lễ thức thực hiện ở khu phụ đều không được đầy đủ, ít hơn so với khu chính.

     Người Chăm quan niệm đối với các vấn đề về tang chế là thiêng liêng và rất quan trọng, chi phối ảnh hưởng khá nhiều mặt đời sống tinh thần và là lý do làm cho người Chăm – đặc biệt là phụ nữ Chăm – rất ít khi chịu rời bỏ quê hương xứ sở “palei” đi nơi xa, vì bỏ “palei” sẽ là bỏ “kút”, bỏ “ghur rak”, bỏ nơi chôn cất tổ tiên ông bà, không còn ai thờ phụng, chăm sóc.

     Về kinh tế tộc họ: Trong chế độ xã hội còn tư hữu về ruộng đất, mỗi tộc họ đều có sở hữu một số diện tích ruộng đất mang tính chất tộc họ với các tên gọi như “hamu bhum”, “hamu kut”, “hamutalang”, “hamu họ”. Đây là biểu hiện về cơ sở kinh tế bảo đảm sự thống nhất giữa các thành viên trong thiết chế tộc họ.

     Thông qua các phương thức sử dụng ruộng đất tộc họ là cơ hội mang quyền lợi, lợi ích vật chất cho gia đình thành viên tộc họ, nhất là đối với các gia đình nông dân không có hoặc thiếu ruộng đất; đồng thời hoa lợi thu được từ số ruộng đất này sẽ duy trì nguồn quỹ tài chính của tộc họ trang trải trước hết cho các hoạt động lễ tục cúng kính thờ phụng của tộc họ hàng năm hay đúng kỳ lệ, không đòi hỏi sự chung đậu làm ảnh hưởng nguồn thu nhập của từng gia đình thành viên; sau nữa nguồn quỹ tài chính của tộc họ có thể hỗ trợ cho các gia đình thành viên gặp khó khăn. Với cơ sở kinh tế vật chất như vậy, đồng thời từ quyền lợi được hưởng của các gia đình thành viên trong tộc họ khi được nhận ruộng đất tộc họ để canh tác, đã tạo nên sự cố kết bền chặt giữa các gia đình thành viên và tộc họ.

     Về trật tự xã hội: Khi trong tộc họ xuất hiện sự xích mích, bất hòa giữa một vài gia đình thành viên thì trưởng tộc họ sẽ tổ chức dùng quan hệ tộc họ để tiến hành hòa giải, hàn gắn. Do chịu ảnh hưởng, ràng buộc về nhiều mặt với tộc họ, nên các gia đình thành viên thường phải chấp hành, nghe theo sự phân định hòa giải của tộc họ. Tinh thần đoàn kết tương trợ trong toàn tộc họ chẳng những được thể hiện khi các gia đình thành viên có việc mà còn khi cả trong quan hệ, ứng xử với các gia đình của tộc họ khác, trong trường hợp bị thiệt thòi trong quan hệ xã hội, tộc họ sẽ có biện pháp bênh vực, hậu thuẫn không để cho gia đình thành viên bị cô thế.

     Trên cả hai phương diện tinh thần và vật chất, quan hệ tộc họ truyền thống người Chăm đã có sự tác dụng ảnh hưởng khá quan trọng đối với gia đình thành viên, tạo ra sự ràng buộc, cố kết khá chặt chẽ trong việc hình thành phát triển cộng đồng người Chăm. Đồng thời, tộc họ Chăm cũng chứa đựng cả yếu tố tích cực và không tích cực. Điều quan trọng là phải làm cho chính người Chăm nhận thức đúng và đầy đủ các yếu tố đó để họ phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực tạo đà cho sự phát triển chung.

     3.2. Những biến đổi trong sinh hoạt tộc họ

     Trong các hoạt động tín ngưỡng – tinh thần thờ cúng tổ tiên ông bà, hôn nhân, tang chế; trừ một số lễ thức riêng trong phạm vi gia đình còn lại vẫn đòi hỏi vai trò của tộc họ để bảo đảm duy trì các hoạt động đó, đặc biệt là các hoạt động tinh thần thuộc về đạo lý truyền thống thể hiện tính nhân văn và những tập tục thể hiện bản sắc dân tộc đã ăn sâu, bám rễ lâu đời vào tiềm thức của đồng bào Chăm. Tuy nhiên, dưới chế độ XHCN, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, do vậy không còn hình thức ruộng đất thuộc về sở hữu tộc họ, sở hữu gia đình như trước đây. Điều đó có nghĩa là cơ sở kinh tế của tộc họ không còn nguồn ruộng đất tạo cơ hội sử dụng cho gia đình thành viên hoặc cho con trai đem theo về làm ăn với vợ. Gia đình cũng sẽ có ít “ruộng mẫu trâu bầy”, vốn là cơ sở kinh tế của chế độ mẫu hệ như trước đây. Tộc họ không còn nguồn hoa lợi, khi gặp phải khó khăn, mỗi lần thực hiện phải bằng hình thức dự toán phân bổ cho các gia đình thành viên, rất bất tiện. Thay vào đó, mỗi gia đình thành viên hiện nay đều được giao quyền sử dụng một số diện tích ruộng đất để sản xuất. Đây là cơ sở kinh tế của từng gia đình thành viên, hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào kinh tế tộc họ, kéo theo sự phân hóa tự nhiên: cùng một tộc họ, có gia đình phát triển khá lên song cũng có gia đình sa sút. Để có kinh phí chi dùng thực hiện một số tập tục thuộc về tộc họ, dưới sự chủ trì, điều hành của chủ tộc họ, trưởng họ đã đề ra phương cách phân bổ và đóng góp, theo mức đầu người các thành viên nam, nữ khác nhau trong tộc họ. “Gơp likei” (nam) đóng ít hơn “gơp kamei” (nữ). Hỗ trợ về kinh tế vật chất không còn, lại phải thực hiện nghĩa vụ chung đậu chỉ để đáp ứng cho các nhu cầu tinh thần thuộc về tộc họ mà mỗi gia đình thành viên dù có muốn độc lập cũng không thực hiện được thì về mặt vật chất – kinh tế chỉ còn là nghĩa vụ – trách nhiệm, rất ít lợi ích vật chất. Mặt khác cơ cấu kinh tế, việc làm, lao động tạo thu nhập gia đình trong người Chăm đã có sự chuyển đổi dần, không hẳn chỉ duy nhất là nông nghiệp mà còn nhiều ngành nghề khác thể hiện tính độc lập của hộ gia đình đối với tộc họ. Do đó, sự gắn kết với tộc họ có biểu hiện lỏng lẻo, ít bền chặt hơn trước đây. Sự chi phối và ảnh hưởng, ràng buộc không nguyên tắc, cứng nhắc như trước mà diễn ta có phần uyển chuyển hơn.

     Về các lễ thức liên quan đến tập tục thờ cúng “chiêt atuv”, có thể do công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, điều trị bệnh bằng các phương pháp khoa học đông tây y ngày càng phổ biến, lan rộng, có hiệu quả ở các vùng đồng bào Chăm làm giảm bớt việc khấn vái cầu xin với tổ tiên ông bà phù hộ cho sức khỏe, qua cơn bệnh tật; làm ít đi các lễ cúng “rija”; giảm bớt sự ràng buộc với tộc họ.

     Trong hôn nhân, sự ràng buộc tộc họ có phần giảm bớt, do yếu tố tự nguyện được tôn trọng hơn. Không còn tình trạng môn đăng hộ đối, dòng quý tộc chỉ được lấy dòng quý tộc nữa mà đã có sự mở rộng; loại hôn nhân không đồng dân tộc, đồng tôn giáo tuy vẫn không được tán thành nhưng không đến nỗi gay gắt như trước đây.

     Chế độ mẫu hệ ở người Chăm vẫn còn bảo lưu đến tận ngày nay và sẽ tồn tại mãi, song dưới chế độ xã hội mới, do nguyên nhân về cơ sở kinh tế của chế độ mẫu hệ không còn và để thích ứng với trào lưu tiến hóa của nhân loại, thực tế hiện nay, vai trò đàn ông trong gia đình, tộc họ được đề cao hơn. Vì dù sao, người đàn ông tuy là ở rể của gia đình, tộc họ nhưng ông ta chính là nhân tố quan trọng quyết định việc duy trì và phát triển tài sản cùng với con cái cho gia đình tộc họ, như người Chăm nói là “jiơng ganup, ngap mưda”, cho nên “urang parat” được sự tôn trọng của tộc họ vợ, nhất là quan hệ giữa những đàn ông chính và rể trong tộc họ, giữa ông trưởng họ với đàn ông ở rể luôn được giữ êm đẹp. Điều đó rất dễ hòa thuận vì tất cả họ đều là đàn ông và đều có hoàn cảnh giống nhau nên rất dễ thông cảm cho nhau. Những công việc của tộc họ, tuy những “urang parat” không có quyền quyết định, song luôn được những người chủ họ, trưởng họ, người vợ tham khảo ý kiến, tranh thủ sự đồng tình. Với sự tôn trọng đúng mức của các thành viên trong tộc họ vợ như vậy, cộng với sự khéo léo thuyết phục trong quan hệ vợ chồng thì khó có người đàn ông nào có thể đứng ngoài cuộc, không cộng tác trong những hoạt động của tộc họ bên vợ được.

     Cùng với các chuyển biến khác, việc lấy họ cho con không còn theo một quy tắc cố định nữa, mà chuyển sang con trai lấy họ cha, con gái lấy họ mẹ hoặc kết hợp hai họ cha mẹ cho các con, hoặc lấy theo họ cha hoàn toàn cho cả con trai và con gái. Do vậy, hiện nay nhìn vào tên các thành viên trong một tộc họ, vẫn cùng “gơp sa chiêt atuv”, “gơp sa kut” nhưng từng dòng họ “talei gơp” “gơp sa ghurar” lại mang họ khác nhau, tưởng chừng như khác tộc họ, song thực chất vẫn là một.

     Trong tang chế, cũng có sự cởi mở tương tự, đặc biệt đối với đồng bào Chăm Bàlamôn. Những tộc họ hiện chưa có kut thì khi thành viên qua đời, không còn chịu sự ràng buộc của tộc họ, nhất thiết phải tiến hành lễ hỏa táng. Đã có nhiều trường hợp người chết trên 14 tuổi, không chôn gởi mà chôn vĩnh viễn theo tục “jap brah”, nghĩa là sau này nếu con cháu, tộc họ có điều kiện muốn hỏa táng và muốn đưa người đó vào “kut” cũng không còn được nữa. Tuy nhiên về quan niệm chết không lành thì vẫn chưa được tộc họ chấp nhận gia giảm mặc dù có một số trường hợp bức xúc, bất khả kháng, vẫn phải đau khổ chịu nằm vào khu phụ.

     Sự chuyển biến trong quan hệ tộc họ của người Chăm hiện nay là sự giằng co muốn tách rời độc lập của gia đình với tộc họ trong các mối quan hệ xã hội và sự níu kéo của tộc họ trong vai trò lưu truyền giá trị nhân văn, bản sắc văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng cùng với chế độ mẫu hệ không thể chuyển đổi được.

     Tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại qua các chế độ xã hội của thiết chế tộc họ người Chăm cho ta thấy thiết chế này có tiềm năng tổ chức các hoạt động xã hội phục vụ nhu cầu đời sống tinh thần và vật chất đối với các thành viên trong cộng đồng. Vì vậy, thiết chế này sẽ còn tồn tại lâu dài trong xã hội Chăm. Tuy nhiên, dưới tác động của chế độ quan hệ huyết thống theo mẹ và chế độ xã hội mà quan hệ tộc họ đang vận động cùng với sự tác động của tôn giáo – tín ngưỡng, thiết chế tộc họ Chăm, bên cạnh sự chuyển mình thích nghi theo xu thế của xã hội đương đại vẫn không thể dứt bỏ ngay tính bảo thủ cố hữu của xã hội và một số biểu hiện lạc hậu, không hợp thời của tôn giáo.

     Điều cần thiết là chọn lọc để giữ gìn, phát huy truyền thống tích cực và bản sắc văn hóa dân tộc của thiết chế họ tộc, khai thác các tiềm năng tổ chức các hoạt động vào cuộc vận động xây dựng cuộc sống văn hóa ở khu dân cư người Chăm sao cho đạt hiệu quả cao nhất.

     Từ mối quan hệ ràng buộc có tính chất huyết thống mà đạo làm người không ai có thể từ chối trách nhiệm – nghĩa vụ, hoạt động tộc họ không chỉ nên dừng lại ở những việc thuộc lĩnh vực tinh thần, thờ cúng tổ tiên – ông bà, hôn nhân, tang chế. Những vấn đề đó cũng có ích, song chưa thật đủ so với các nhu cầu trong cuộc sống của các gia đình; cũng từ đó chưa đủ sức cố kết chặt chẽ các thành viên trong tộc họ. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu con người – thành viên của một tộc họ – ngày càng phong phú. Muốn cho các thành viên luôn cố kết trong tộc họ thì tộc họ phải vươn ra đáp ứng nhu cầu mới.

     Để cho tộc họ thực hiện được các hoạt động của mình (việc họ) không thể không chú ý đến nguồn lực vật chất được chủ động chứ không được lệ thuộc. Đó là vấn đề xây dựng nguồn quỹ của tộc họ [Hình thức gây quỹ họ tộc giúp nhau làm ăn, xây dựng mạnh phong trào khuyến học của từng tộc họ, tạo phong trào thi đua, tạo động lực khuyến khích con em vươn lên học tập (hỗ trợ học sinh khá giỏi, hỗ trợ tiền tàu xe đi về dịp hè, tết, điển hình như thôn Như Bình, Hoài Trung xã Phước Thái, thôn An Nhơn, Phước Nhơn xã Xuân Hải thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu) ngày càng mở rộng và rất có hiệu quả trong cộng đồng người Chăm hiện nay.]. Quỹ của tộc họ có dồi dào thì nguồn lực của họ mới mạnh, chi phối được gia đình thành viên bằng cụ thể chứ không kêu gọi chung chung. Bằng nguồn lực của tộc họ, giải quyết được một số việc thiết thân nhất đối với gia đình thành viên ở những thời điểm cần thiết sẽ tạo ra niềm tin gắn bó hơn của thành viên đối với tộc họ. Từ những việc thiết thân đó khi đã có sự ràng buộc cố kết chặt chẽ hơn, không chỉ với ràng buộc huyết thống, tộc họ sẽ đưa dần vào tổ chức thực hiện các tiêu chí phù hợp, vừa sức của cuộc vận động xây dựng cuộc sống văn hóa với mục tiêu phấn đấu trở thành tộc họ văn hóa.

     Trong mối quan hệ tộc họ hiện nay ở người Chăm, mặc dù những người trong họ vẫn quan tâm đến nhau, chăm sóc, lo lắng cho nhau mỗi khi khó khăn ốm đau hay hoạn nạn… Nhưng nhìn chung trong bối cảnh tính pháp chế của đời sống ngày càng lên, yếu tố thị trường của sản xuất đang len lỏi vào đời sống cộng đồng từng ngày, mô hình cấu trúc thôn, làng cũ bị phá vỡ… xu hướng chung của sự chia sẻ, quan tâm ấy trong họ tộc cũng ngày càng nhạt dần. Các vụ tranh chấp đất đai trong tộc họ xảy ra, yếu tố coi trọng tính cố kết tộc họ, vai trò tiếng nói của người trưởng họ, chủ họ bị suy giảm. Niềm tin vào “sắc thái” tộc họ riêng của mỗi cá nhân như tục thờ totem, các điều kiêng cữ riêng trong đời sống bị xem nhẹ. Xu hướng chung hiện nay là có sự tranh chấp hơn thua ngầm giữa các tộc họ, qua suy nghĩ tộc họ nào có nhiều người được cử vào các cấp hành chính thôn làng, làm cán bộ huởng lương của nhà nước thì dường như các thành viên họ đó sẽ hãnh diện hơn đối với các họ khác trong làng; hoặc thậm chí có xuất hiện tâm lý trong các cá nhân khi tộc họ của mình có người làm trong hệ thống lãnh đạo ở địa phương. Thậm chí quy mô tổ chức các buổi lễ cúng của tộc họ hiện nay không được xét bằng yếu tố nhiều ngày, nhiều rượu, heo, gà như trước, mà là việc xem xét sự đại diện của các cấp hành chính trong thôn, xã đến tham dự buổi lễ cúng ấy của tộc họ như thế nào. Hiện tượng này đương nhiên chưa phải là xu hướng phổ biến trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận, nhưng đang ngấm ngầm tồn tại thể hiện sự thay đổi không tích cực trong đời sống tâm thức mỗi thành viên điều mà trước đây chưa hề xảy ra.

4. Kết luận

     Trong quá trình xây dựng một xã hội mới, nhiều yếu tố của nếp sống cũ, tự chúng sẽ mất đi qua những cuộc cải cách kinh tế và xã hội, điều đó là tất yếu. Đồng thời còn nhiều yếu tố có giá trị sẽ được bảo lưu trong một thời gian dài, thậm chí lâu bền. Có những yếu tố nhìn bề ngoài có vẻ như ngược với yêu cầu của cuộc sống mới nhưng cũng được bảo lưu vì đã gắn chặt với nếp sống của cộng đồng. Vì vậy, cần giáo dục cho các thế hệ người Chăm nhận thức đúng đắn về những giá trị văn hoá, để cộng đồng có trách nhiệm và thái độ ứng xử đúng mực với nó. Bảo tồn bản sắc văn hoá là cần thiết song vấn đề là phải có một cuộc vận động trong đồng bào Chăm có ý thức cùng nhà nước bảo tồn sao cho phù hợp với đời sống của xã hội đương đại, trên cơ sở kết hợp giữa giá trị truyền thống và hiện đại trong quá trình giao lưu, hội nhập. Cụ thể là, sớm xây dựng quy chế đơn giản hóa lễ thức bằng việc xây dựng quy chế của xã và hương ước, quy ước của thôn theo hướng văn minh tiến bộ. Hướng cho mỗi tộc họ khi cử người làm Trưởng họ tối thiểu phải có trình độ văn hóa cấp III trở lên, đồng thời tăng cường tuyên truyền, vận động tạo điều kiện cho những người là Chủ họ, Trưởng họ tham gia vào Mặt trận và các tổ chức đoàn thể ở địa phương, trên cơ sở đó tiến hành tập huấn các kiến thức liên quan đến công tác xây dựng đời sống văn hóa mới, nông thôn mới; vận động họ nêu cao tính gương mẫu không chỉ là người đại diện trong tộc họ mà còn là hình tượng đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước của cộng đồng; tăng cường tuyên truyền, giáo dục họ nhận diện đúng đắn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình trong quan hệ với họ tộc và cộng đồng, để họ nâng cao ý thức coi việc thực hành các lễ thức, vừa là trách nhiệm, vừa là nghĩa cử cao cả, thông qua đó để làm nòng cốt trong việc giáo dục quần chúng chậm tiến trong nội bộ họ tộc và cộng đồng dân cư.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     Ngô Thị Chính, Ta Long (2007). Ảnh hưởng của yếu tố tộc người đến sự phát triển kinh tế xã hội của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận. NXB Khoa học Xã hội.

     Ngô Phương Lan (2015). Phong tục phân chia đất đai của người Chăm theo chế độ mẫu hệ trong bối cảnh bình đẳng giới hiện nay. Tạp chí Dân tộc học. 3(191), 19-27.

     Tỉnh ủy Ninh Thuận (2013). Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Thông tri số 03-TT/TW của Ban Bí thư về công tác đối với đồng bào Chăm. Số 118-BC/TU, ngày 18/4/2013.

     Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận (2013). Báo cáo về Tổng kết 20 năm thực hiện Thông tri số 03-TT/TW, ngày 17/01/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa VII) về công tác đối với đồng bào Chăm tỉnh Ninh Thuận. Số 119/BC-SNN, ngày 22/4/2013.

     Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Ninh Thuận (2013). Báo cáo về tình hình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội vùng đồng bào Chăm theo tinh thần Thông tri số 03-TT/TW ngày 17/10/1991 của Ban Bí thư về công tác đối với đồng bào Chăm giai đoạn 1992-2012. Số 1165/BC-SKHĐT, ngày 03/6/2013.

     Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận (2015). Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 06/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh – trật tự đối với vùng đồng bào Chăm trong tình hình mới. Số 237/BC-UBND, ngày 15/9/2015.

     Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận (2015). Báo cáo về Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 06/2004/CTTTg ngày 18/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ, về việc tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh trật tự đối với vùng đồng bào Chăm trong tình hình mới (giai đoạn 2004 – 2014). Số 221 /BC-UBND, ngày 22/9/2015.

     Ủy ban nhân dân huyện Ninh Phước (2013). Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Thông tri số 03- TT/TW của Ban Bí thư về công tác đối với đồng bào Chăm. Số 122-BC/UBND, ngày 19/4 /2013.

      Ủy ban nhân dân xã Phước Nam. Báo cáo Tổng kết Thông tri số 03-TT/TW của Ban Bí thư về công tác đối với đồng bào Chăm. Số 119-BC/UBND, ngày 22/02/2013.

     Ủy ban nhân dân xã Phan Thanh. Báo cáo Tổng kết Thông tri số 03-TT/TW của Ban Bí thư về công tác đối với đồng bào Chăm. Số 98-BC/UBND, ngày 18/03/2013.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, Số 4(43)-2019

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Tộc họ và những biến đổi trong sinh hoạt tộc họ của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận (Tác giả: Lý Hoàng Nam)