Hội thảo Khoa học VIỆT NAM HỌC lần 5, Hà Nội 12/2016
1. Việt Nam – Trung tâm Việt Nam học quốc tế
“Việc tổ chức hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với việc dần đưa Việt Nam trở thành Trung tâm nghiên cứu Việt Nam học của toàn thế giới” – GS TSKH Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), nguyên Phó Giám đốc ĐHQGHN.
Hội thảo khoa học được tổ chức nhằm tạo ra diễn đàn thảo luận và đề xuất những giải pháp góp phần giải quyết các vấn đề đương đại của Việt Nam trong bối cảnh biến đổi toàn cầu. Hội thảo cũng hướng tới việc đẩy mạnh sự phát triển mạng lưới Việt Nam học toàn cầu, quy tụ đội ngũ chuyên gia trong nước, ngoài nước nghiên cứu về Việt Nam thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tiến tới hình thành một tổ chức quốc tế về Việt Nam học mà ở đó Việt Nam đóng vai trò trung tâm.
Trước đây, Tổ chức EuroViet bao gồm những người Châu Âu nghiên cứu về Việt Nam đã từng tổ chức nhiều cuộc hội thảo về Việt Nam học tạo tiếng vang như là một trung tâm nghiên cứu Việt Nam nằm ở châu Âu và Hoa Kỳ. Kể từ năm 1998, Hội thảo quốc tế Việt Nam học (HTQTVNH) được tổ chức tại Việt Nam lần đầu tiên và sức hút của EuroViet giảm dần. Đội ngũ các nhà khoa học trên toàn thế giới nghiên cứu về Việt Nam ngày càng có sự quan tâm sâu sắc và mạnh mẽ đối với chuỗi HTQTVNH được tổ chức tại Việt Nam. Hiện nay, EuroViet hầu như không còn hoạt động nữa.
2. Qui mô của các lần Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học
◊ HTQTVNH lần 1 /1998 với chủ đề “Nghiên cứu Việt Nam và phát triển hợp tác quốc tế” đã có trên 300 nhà khoa học quốc tế đến từ 27 quốc gia thuộc khắp các châu lục đến tham dự, có 15 tiểu ban với 395 báo cáo, trong đó có 163 báo cáo của các nhà khoa học quốc tế;
◊ HTQTVNH lần 2 /2004 với chủ đề “Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại” có 10 tiểu ban, 316 báo cáo, trong đó có 104 báo cáo quốc tế;
◊ HTQTVNH lần 3 /2008 với chủ đề “Việt Nam hội nhập và phát triển”, với 18 tiểu ban, 531 báo cáo, trong đó có 160 báo cáo quốc tế.
◊ HTQTVNH lần 4 /2012 với chủ đề “Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển bền vững”, qui tụ gần 1000 nhà khoa học đến từ 36 quốc gia và vùng lãnh thổ, với 15 tiểu ban.
◊ HTQTVNH lần 5 /2016 với chủ đề “Phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu”, có 6 tiểu ban chuyên môn, bao gồm: Tiểu ban 1 – Ngoại giao, hợp tác và hội nhập quốc tế; Tiểu ban 2 – Nguồn lực văn hóa; Tiểu ban 3 – Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực; Tiểu ban 4 – Chuyển giao tri thức và công nghệ; Tiểu ban 5 – Kinh tế và sinh kế; Tiểu ban 6 – Biến đổi khí hậu; có hơn 700 bài báo của các nhà khoa học khắp năm châu. Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) được giao làm đơn vị chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành, trung tâm nghiên cứu lớn ở Việt Nam như: Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
3. Sự khác biệt của Hội thảo lần 5 so với các lần hội thảo trước đây
◊ HTKHQTVNH lần thứ 5 chỉ bố trí 6 tiểu ban nội dung tập trung vào các nhóm lĩnh vực và giao cho 5 trường đại học thành viên của ĐHQGHN như: Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐH Ngoại ngữ, Trường ĐH Công nghệ, Trường ĐH Giáo dục, Trường ĐH Kinh tế và Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển làm đầu mối tập hợp nội dung của các tiểu ban chuyên môn.
◊ HTKHQTVNH lần thứ 5 tập trung vào các đề tài đề cập đến vấn đề chuyển giao tri thức, công nghệ và biến đổi khí hậu. Đây là những vấn đề nóng đang đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam.
◊ HTKHQTVNH lần thứ 5 đề cập đến hàng loạt vấn đề thời sự của đất nước, như: việc nhận diện Việt Nam đang trong quá trình hội nhập hội nhập quốc tế, bước đường mà Việt Nam sẽ đi tiếp, những vấn đề đặt ra khi văn hóa không còn chỉ là lĩnh vực của đời sống tinh thần mà văn hóa trở thành nguồn lực cho sự phát triển bền vững, vấn đề Việt Nam gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, việc đổi mới giáo dục: các mô hình đào tạo, phương pháp đào tạo, hệ thống các ngành đào tạo, …
4. Những kỳ vọng của Ban tổ chức Hội thảo mong muốn đạt được
◊ Những thu hoạch về chuyên môn sâu thuần túy giúp Việt Nam hiểu rõ hơn về chính mình;
◊ Những đóng góp trực tiếp đến việc hoạch định ra các chủ trương, chính sách cho các cấp lãnh đạo, quản lí của Việt Nam.
5. Thuận lợi và khó khăn của Hội thảo lần 5
Thuận lợi:
◊ Tinh thần làm việc hi sinh quên mình để Hội thảo thành công;
◊ Các đơn vị đào tạo, nghiên cứu hậu thuẫn chuyên môn cho các tiểu ban;
◊ Sự cháy bỏng ước mơ có một ngày Việt Nam trở thành Thánh địa nghiên cứu về Việt Nam học. Đó chính là yếu tố tinh thần giúp Hội thảo hào hứng, say mê với rất nhiều ngày làm việc thâu đêm suốt sáng.
Khó khăn:
◊ Sự tham gia của đông đảo các bộ phận, đơn vị khiến cho việc chỉ đạo, điều phối phân tán, tạo mặt bằng chung không dễ;
◊ Xu thế của các nhà khoa học bận dần đều. Số lượng bài báo thì nhiều, nhà khoa học trẻ nhiều nhưng chất lượng thì còn hạn chế. Đội ngũ các nhà khoa học uyên thâm, đã từng công bố các kết quả sâu sắc thì lại thiếu hào hứng.
6. Các nhà khoa học quốc tế nghiên cứu Việt Nam học
Các nhà khoa học quốc tế là sứ giả của quan hệ hợp tác quốc tế với Việt Nam và quan trọng hơn là cầu nối tác động rất mạnh đến chính sách của các quốc gia khác đối với Việt Nam – Ví dụ như: 1) GS. Sakurai Yumio – học giả Nhật Bản đã gắn bó cả cuộc đời và sự nghiệp với Việt Nam. Ông thuộc thế hệ các học giả được gọi là “Thế hệ Việt Nam”, đã tham gia phong trào chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của ông trải rộng trên nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á, nhưng Việt Nam luôn luôn giữ vị trí chủ đạo trong khối óc và trái tim ông. Qua các nghiên cứu của GS. Sakurai Yumio, lần đầu tiên trên thế giới, một đơn vị cư trú nhỏ bé như làng Bách Cốc đã được nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về mọi phương diện từ địa chất, địa lý, môi trường sinh thái, thế giới động vật, thực vật đến khảo cổ học, lịch sử từ thời tiền sử đến ngày nay, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng cư dân, kết cấu cư dân, các di tích lịch sử văn hóa, … 2) Nhà Việt Nam học Nhật Bản GS. Furuta Motoo – nguyên Phó Giám đốc ĐH Tokyo, Hiệu trưởng Trường ĐH Việt – Nhật, người góp phần thúc đẩy sự phát triển của quan hệ giáo dục Việt Nam – Nhật Bản; 3) Gần đây nhất, cả thế giới ấn tượng mạnh với bài phát biểu mạng đậm dấu ấn hàn lâm của Tổng thống Barack Obama trong chuyến thăm Việt Nam ngày 24/5/2016. Đó là một minh chứng sống động về việc ứng dụng kết quả nghiên cứu Việt Nam học trong hoạt động chính trị, ngoại giao quốc tế của GS. Pete Zinoman của Đại học California tại Berkeley, Hoa Kỳ, một chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam đã tư vấn cho người chắp bút bài phát biểu của ông Obama.
BAN TU THƯ
08/2019
Tham khảo:
1) vnu.edu.vn; 2) dlu.edu.vn; 3) bachkhoatoanthu.vass.gov.vn; v.v…